Lại nói về Bán Dạ Sinh, từ khi chia tay với Cô phong trưởng lão, thì lẩm nhẩm một mình:
“Thật là một bậc chân tu! Nhưng mà mình tuổi mới hai mươi, chẳng khác nào một đóa hoa tươi vừa nở, lại bảo cạo đầu đi tu chịu khổ, trên đời sao mà có con người không tình cảm đến thế. Hôm nọ mình đến, chẳng qua vì lão là một nhà sư nổi tiếng, mình trong bụng cũng có một số kiến giải bất đồng, lại muốn học hỏi cái lẽ mầu nhiệm của đạo Thiền, nào ngờ lão xem mình rất thường. Ăn nói đã khắc bạc không chịu nổi, lại còn làm bài kệ chê người không đáng là một bậc đại trượng phu thân dài vai rộng. Nếu làm quan, mình dư sức cai tri thiên hạ, quản lý muôn dân, chẳng lẽ kiếm một người vở mà không nổi, để lão xài xể như vậy. Nay mình quyết phải đấu với lão một trận, không gặp người đẹp thì thôi, nếu gặp thì nhất định không bỏ lỡ, phải phong lưu một phen, xem món nợ tình này có ai dám đến đòi không. Chẳng phải kiêu căng, cho dù là hạng phụ nữ nào đi nữa, nếu có được một người chồng tài hoa như mình, nhất định là ai mà dụ dỗ nổi. Mà như thế thì làm sao có chuyện thất tiết được. Lẽ ra bài kệ mình phải xé nát rồi đem trả lại cho lão, nhưng nghĩ lại sau này muốn làm cho lão cứng họng thì phải có cái gì làm bằng cớ, nên thôi. Mình giũ đó để xem rồi đây chính lão có biết hối lỗi hay không”.
Nghĩ xong , Sinh bèn cuộn tờ giấy mà cất vào tay áo. Về đén nhà, Sinh bèn sai gia nhân đến các nơi mai mối tìm cho được nguời đẹp nhất thiên hạ. Vốn con nhà thế phiệt, lại có dung mạo Phan An, tài không thua Tử Kiến, cho nên tự dắc rằng ai mà không muốn có người rể như mình, có nữ nhân nào không muốn có người chồng như mình.
Thế là hằng ngày khối nhà bắn tiếng cầu thân. Con nhà nghèo thì đến cho chàng xem mắt từ đầu đến chân, con nhà giàu thì vì thể diện thì hẹn gặp nhau nơi chùa miếu, hoặc ngoài đồng vắng, hai người gặp nhau, người có tình, kẻ vô ý, vậy mà khi về lắm cô tương tư thành bệnh.
Riêng chàng không vừa ý ai cả. Có một bà mối nói với Sinh:
“Xem chừng, chắc không có cô nào xứng với cậu. Riêng có tiểu thư con gái của Thiết Phi đạo nhân, tên Quý Hương, đẹp người đẹp nết may ra hợp với cậu thôi. Có điều, phụ thân của cô tính tình cổ quái, chắc không chịu để cậu xem mắt, mà cậu thì lại đòi xem mặt trước cho được, khó quá khó quá”.
Bán Dạ Sinh nói:
“Tại sao gọi ông ấy là Thiết Phi đạo nhân? Làm sao biết cô ấy đẹp? Tại sao không chịu cho xem mắt?”
Bà mai nói:
“Ông lão ấy là một vị túc nho, cả huyện đều biết tiếng. Tính ông ấ rất lạ lùng kỳ quặ. Nhà dư ruộng đất nên không thèm giao dịch vói ai, đời không có lấy một nguời bạn, chỉ một mình đọc sách, bất cứ ai đdến xin làm quen cũng không tiếp. Một hôm có người khách lạ, vì mộ tiếng nên không quản đường xá xa xôi lặn lội đến thăm. Khach gõ cửa thật lâu, nhưng ông vẫn không ra mở, cũng không thèm lên tiếng. Khách đành đi, để lại một bài thọ trên cửa. Thơ có hai câu:
Ðản tri cao sĩ bồng vi hộ
Thùy liệu tiên sinh thiết tác phi
Có nghĩa:
Những tưởng cổng nhà cao sĩ làm bằng cỏ bồng
Ai ngờ chờ mải chỉ thấy cánh cửa làm bằng sắt
Về sau, ông lão có dịp đọc câu thơ, rất lấy làm thích và nói:
“Hai chữ Thiết Phi, tức cử sắt, nghe nửa lạ nửa quen, mà không sai”
Ông bèn chọn làm biệt hiệu, tự gọi là Thiết Phi dạo nhân.
Ông không co1 con trai, chỉ sinh được một gái như hoa, như ngọc. Bọn tôi làm mai, từng gặp hàng ngàn, hàng vạn cô gái nhưng chưa từng thấy cô nào sánh nổi. Lại được cha dạy dỗ, không có loại thi từ ca phú nào mà cô không làm được. cô còn là một tiểu thư khuê môn bất xuất, hội hè đình đám không hề lui tới, tuổi đã mười sáu rồi mà chưa từng đi ra ngoài, loại tam cô lục bà như ni cô sư bà… có bao giờ bén mảng tới nhà cô được.
Riêng có một hôm, khi tôi đi ngang qua nhà, ông lão đứng trước cửa gọi:
“Có phải bà là bà mối đấy không?”
Tôi đáp:
“Thưa chính tôi đây”
Họ mới đưa tôi vào nhà. Ông lão chỉ cô gái, nói:
“Dây là con gái của lão, lão muốn tìm một chàng rể tướng mạo dễ coi, lại biết hiếu thuận cha mẹ, bà để ý kiếm dùm lão một người.”
Tôi mới nhắc đến cậu, thì ông ấy nói:
“Già này có nghe danh của cậu ấy, nhưng không rõ đức hạnh ra sao”
Tôi nói:
“Cậu ấy tuy tuổi thiếu niên nhưng tài lão thành, tiếng đồn không ngoa. Duy có một điều là cậu ấy muốn thấy mặt người rồi mới nộp sính lễ. Như tiểu thư đây tài mạo song toàn chắc vừa ý cậu, nhưng không rõ tôn ông có cho phép cậu ấy đến thăm không”
Ông lão nghe xong sầm nét mặt nói:
“Ăn nói hồ đồ. Chỉ có người Dương châu nuôi ngựa gầy mới phải cho người ta xem trước, chứ con gái nhà ta đời nào lại cho trai đến xem mặt.”
Nghe ông lão nói vậy, tôi không biết nói gì thêm nên rút lui, bởi vậy e rằng việc này khó thành.
Bán Dạ Sinh suy nghĩ rồi nhủ lòng:
“Như ta hôm nay, trên khôngcòn cha mẹ, dưới không có anh em, một thân một mình, mai kia cưới vợ, biết nhờ ai trông trước trông sau, nhất là những lúc vắng nhà vì phải đi học xa hoặc ra làm quan. Ông cụ đây tâm tính như thế, phép tề gia như thế nào, không cần nói cũng rõ. Mình mà vào làm rể nhà này thì việc nhà việc cửa đã có cha vợ, đi đâu cũng khỏi lo gì cả, thật càng hay chứ sao”
Rồi tuy không nén được vui mừng, chàng cứ nằng nặc đòi được dàn xếp để được thoáng thấy tư dung hay nghe qua tiếng nói cuả nàng, vì vợ con là chuyện một đời. Bà mối mới bảo:
“Sao cậu không đi tìm thầy đồng xem quẻ? Nhân duyên tốt thì cậu cứ gọi Lưu bà này xucù tiến mối manh, tiện lợi đôi bề”.
Chàng nghe lời, hôm sau lại thầy đồng nổi tiếng trong vùng, khấn khứa tên tuổi đôi đàng, xóc quẻ thì đươcï quẻ dạy:
Không còn hồ nghi
Nữ nhân quý báu
Cẩn thận canh chừng
Không cho ruồi phạm
Sinh đọc xong, nhủ rằng vợ chưa cưới chắc hẳn là đẹp, nhưng còn muốn được rõ hơn, mới xin xăm thêm một quẻ, quẻ thứ hai ra rằng:
Lấy vợ đoan trang
Chồng phải kính lễ
Khóa chặt cửa nhà
Ruồi vô không lọt
Chàng bằng lòng lắm, mới cho gọi mụ mối đi liệu việc hôn nhân. Thiết phi đạo nhân ban đầu còn từ chối, sau mụ mối nói mãi, rồi cũng thuận gã, lại còn viện lẽ nhà neo người, bắt Sinh ở rể.
Lại nói về dung mạo của quý hương, hôn lễ xong xuôi, tấm mạng che mặt tân nương đêm động phòng một khi đã tháo, quả thật dung nhan hoa nhường nguyệt thẹn, trên đời có một không hai, còn hơn lời mụ mối mô tả nhiều, hẳn nhiên là vậy
Duy một điều, tính tình nết na có thừa mà lẳng lơ tình tứ lại không đủ nên đôi phần không được hạp ý chồng. Ấy chẳng qua vì thường ngày ở nhà được cha mẹ dạy dỗ nghiêm túc, tai không nghe dâm thanh, mắt không nhìn tà sắc, sách đọc nếu không là Liệt nữ truyện thì cũng là Hiếu nữ kinh. Mà những điều này thì trái lại với tâm sự của Bán Dạ Sinh , cho nên Sinh đã đặt cho nàng hỗn danh Nữ đạo học, bởi vì từ ngôn ngữ dến cử chỉ đều giống hệt tác phong của cha.
Nghe ai nói một câu cợt nhả là nàng đỏ mặt, lập tức bỏ đi chổ khác.
Bán Dạ Sinh đôi phen đòi hoan lạc vơi nàng lúc ban ngày để đưọc ngắm xem chổ kín nhưng nàng xấu hổ, quyết liệt từ chối. Ðôi dịp định kéo vợ lại lột bỏ xiêm y thì nàng la hét inh ỏi như bị cưỡng dâm vậy.
Ban đêm nàng ngoan ngoãn trong bổn phận vợ chồng, có điều trông nét mặt không vui, không biết sao, chỉ thấy nhạt nhẽo mà không thấy gì hào hứng. Lúc ân ái với nàng, Sinh chỉ vừa vừa phải phải mà thôi,vì nàng không muốn chồng bày vẽ nọ kia. Muốn gần gụi theo lối “cách tường thủ hỏa” (cách vách lấy lửa), tức ôm hậu bộ), thì nàng cho là điều nhơ nhuốc, không hợp tác. Muốn xáp trận theo lối “đảo kiêu lập chúc” (chúi ngọn nến xuống, tức trồng chuối), thì nàng sợ hãi như lỗi đạo phu thê, phải khó nhọc lắm mới gác được chân nàng lên vai. Còn khi khoái cảm đến tột cùng, có kêu nàng mấy tiếng em em, mình mình, nàng cũng làm ngơ không đáp
Bán Dạ Sinh rất đỗi khổ tâm, nghĩ thầm trong bụng:
“Tiếc thay một tuyệt thế giai nhân, mà không có một chút lơi lả. Nàng chẳng khác một khúc gỗ, một pho tượng, nằm bên cạnh mình, có khoái lạc gì dâu, nhưng biết làm sao đây. Thôi thì từ từ uốn nắn, may ra có thay đổi được chăng”.
Bèn ghé hiệu sách mua một quyển Xuân cung trình bày rất tinh xảo ba mươi sáu tư thế nam nử hợp hoan. Quyển này do học sĩ bản triều làTriệu Tử Ngang soạn gồm ba mươi sáu bài thơ dùng ca tụng lạc thú ái ân. Sinh đem về phòng để cùng đọc với nàng, thâm ý là để nàng thấy trai gái giao hoan với nhau không phải đơn giản chỉ là một lối, trái lại thiên biến vạn hóa vô cùng, khiến cho lạc thú phòng the thêm lên nhiều vẻ, rỏ ràng là những trò nọ kiểu kia giữa nam nữ bất lâu không phải do Sinh tự bày ra, người xưa cũng đã làm rồi, sách vở thời sau ghi lại là để làm chứng đấy thôi.
Lúc mới cầm sách, Quý Huơng không biết bên trong nói gì, nghĩ bụng nếu không phải nói về núi sông thì chắc phải nói về hoa cỏ.
Nhưng khi giở sách ra xem thì lại thấy ở hai trang đầu có đề bốn chữ đại tự Hán cung di chiếu (hình ảnh còn lưu lại trong cung điện nhà Hán). Nàng nghĩ trong cung điện nhà Hán có rất nhiều hiền phi thục viện, chắc đây là di ảnh của các bà ấy, nên tò mò lật xem. Chừng lật qua trang ba thì thấy một ngươi đàn ông ôm một người đàn bà, cả hai đều trần truồng như nhộng, giao tình bên một hòn non bộ. Lập tức nàng đỏ mặt tía tai, nổi giận mà rằng:
“Loại cách bậy bạ này lấy ở đâu về? Sao lại để ở đây làm ô uế phòng ta? Mau gọi a hoàn đem đi đốt”.
Bán Dạ Sinh cản lại, nói:
“Ðồ cổ dấy, giá trăm lượng vàng. Anh mượn của bạn về xem. Nếu em có trăm lượng vàng để thường cho người ta, thì hãy đốt; nếu không, em nên để đó cho anh xem chơi vài hôm, rồi đem trả cho người ta”
Quý Hương thưa:
“Xem danh thư pháp họa để bồi dưỡng tính tình, chứ loại sách nhảm nhí này đọc có ích gì?”
Bán Dạ Sinh nói:
“Nếu là truyện sằng bậy, thì họa công vẽ lại để làm gì và người sưu tầm cũng không dại gì bỏ ra một số tiền lớn để mua về. Phải nói chỉ vì từ khi khai thiên lập địa đến giờ, dây là việc làm đứng đắn nhất. Cho nên văn nhân học sĩ dùng màu sắc để vẽ dùng lụa là để thêu, hoặc bày nơi hàng sách, hoặc giữ chốn kho tàng, để người sau biết mà bắt chước, nếu không lẽ âm dương giao cảm dần dần sẽ bị mai một, đến nỗi sẽ xảy ra cảnh chồng bỏ vợ, vợ oán chồng, nhân gian tuyệt đường sinh con đẻ cháu. Hôm nay anh mượn về, không nhũng để chính anh xem, mà còn muốn cho em đọc để hiểu lẽ đời, rồi mới thụ thai sinh con đẻ cái. Có như vậy sẽ hết bị trói buộc bởi quan niệm đạo đức, mà tình vợ chồng sau này còn đơm bông kết trái nữa. Sao em tỏ vẻ muộn phiền?”
Quý Hương bảo:
“Em không cho đây là việc đứng đắn. Sao xưa cổ nhân không bày ra phép tắc dạy người ân ái công khai giữa ban ngày, mà lại lén lút chờ canh khuya thanh vắng trong phòng tối tăm chật chội, khác nào kẻ trộm. Xem thế đủ rõ là không phải chút nào”.
Bán Dạ Sinh đáp:
“Nàng nói vậy cũng có lý. Nhưng toàn do lỗi từ thân phụ, bởi hồi nhỏ cứ nhốt nàng trong nhà, mặt trời không thấy, không hề nghe chuyện trăng hoa, đầu óc hẹp hòi, kiến văn ít ỏi, nào có biết đời là gì. Ðời thì chỉ có anh đây, giữa bọn đàn ông mới hiểu rành chuyện phong lưu lịch duyệt mà thôi. Cứ như đàn bà con gái ai cũng như em cả, nào ai dám nghĩ vợ chồng cũng nên hợp hoan bạch nhật? Cặp nào hành dâm ban ngày rồi công bố cho đời biết? Nếu chưa ai hề làm thế, sao họa công lấy đâu làm căn cứ, vẽ lại trong sách, tài tình sống động như vầy… làm ai ngó cũng xao xuyến tâm can?”
Quý Hương nói:
“Vậy chớ ba má em không phải vợ chồng sao, mà nào có bao giờ yêu đương ban ngày”.
Bán Dạ Sinh nói:
“Xin hỏi làm sao em biết được là ba má không giao hoan ban ngày?”
Quý Hương nói:
“Nếu có thì em cũng bắt gặp một lần. Chẳng lẽ em tới muời sáu tuổi rồi mà không bắt gặp được lần nào hay sao. đừng nói chi thấy, ngay cả nghe, em cũng chưa nghe bao giờ”.
Bán Dạ Sinh cười to:
“Thôi đi cô ơi, việc đó con cái trong nhà không thấy, không nghe, chứ còn bọn a hoàn, nô tỳ thì có đứa nào không nghe không thấy. Ba má khi nào giao hoan thì phải đợi em đi khỏi, rồi khóa trái cửa lại, chứ em mà biết đươc, lỡ động lòng xuân rồi sinh dạ băn khoăn, ấm ức trong lòng thì sao, cho nên ba má phải giấu em. Em không tin cứ hỏi a hoàn của em mà xem ba má ban ngày có làm tình hay không.”
Quý Hương suy nghĩ một chập, nói:
“Ban ngày ba má cũng thường đóng cửa ngủ, có lẽ để làm việc này cũng không biết chừng, sau đó hai ông bà nhìn nhau có vẻ ngượng ngùng.”
Bán Dạ Sinh nói:
“Làm tình ban ngày thích hơn làm tình ban đêm gấp mưới lần. Cái thú ở chổ vợ chồng nhìn thấy nhau mới hào hứng hơn. Riêng có hai loại vợ chồng không bao giờ yêu nhau ban ngày.”
Quý Hương hỏi:
“Hai loại nào vậy?”
Bán Dạ Sinh nói:
“Loại thứ nhất, chồng xấu vợ đẹp, loại thứ hai vợ xấu chồng đẹp”
Quý Hương nói:
“Tại sao hai loại vợ chồng này không làm tình ban ngày được?”
Bán Dạ Sinh nói:
“Khi lâm trận, thì cả hai vợ chồng phải thương yêu nhau, tinh thần huyết mạch phải giao hợp với nhau mới thích. Nếu người vợ da dẻ trắng phau, nỏn nà như một viên ngọc từng giũa mài, thì người chồng cởi xong quần áo ôm vợ vào lòng, vừa ân ái vừa ngắm nhìn, tự nhiên sẽ cảm thấy cực kỳ khoái lạc, hạ bộ bất giác sẽ cứng lên và to ra. Nhưng nếu người đàn ông xấu như ma, thịt vừa den vừa thô, mặc quần áo để che lấp, chứ đã cởi rồi thì cái xấu xí sẽ lộ hết ra ngoài, không còn cách nào che giấu được. Ðặt cái xấu xí bên cạnh cái mỷ miều, thì làm sao người đẹp không chán ghét mà buột miệng chê trách thành lời. Thế là cái vật cứng kia sẽ mềm đi, cái vật to kia sẽ thun lại, không biết đến bao giờ mới hành sự lại được, thử hỏi còn khoái lạc ở đâu. Thành ra đành làm tình ban đêm là hơn, vì còn che dấu được. Ðó la trường hợp vợ đẹp chồng xấu. Còn trường hợp vợ xấu chồng đẹp cũng vậy, không cần phải nói thêm làm gì.
Riêng vợ chồng mình thì khác: em trắng, anh cũng trắng, em hồng anh cũng hồng, em nõn nà anh cũng nõn nà, nếu mình không hành lạc ban ngày, không cùng khoe da thịt với nhau mà cứ chui vào chăn mền để tìm khoái cảm, há không phải là mai một cả một đời, có khác gì những cặp vợ chồng xấu xí. Em không tin, mình cứ thử xem, so cái thú vị với lúc làm tình ban đêm ra sao.”
Quý Hương nghe đến đây, yên lặng nghẫm nghĩ, mặt tuy bẽn lẽn mà lòng đã xiêu, má ửng hồng, mắt long lanh.
Bán Dạ Sinh nghĩ thầm:
“Dục tình đã dậy, còn đợi chi chưa ra tay.
Có điều nàng chớm động tình, sóng tình chưa dậy, nếu vồ vập ngay thì có khác gì kẻ đói gặp thức ăn, cứ chụp nuốt, không kịp nhâm nhi, rốt cuộc nào biết thơm ngon là gì. phải làm cho nàng thành quýnh quáng, dâm tình tột độ, chừng đó hãy gầy cuộc mây mưa”.
Sinh bèn ngồi lên ghế bành, kéo nàng vào lòng lật từng bức họa trong quyển Xuân cung cùng xem với nàng. Phần trìngh bày có khác với loại sách cùng loại. Trong mỗi bức họa, nử trang trên vẽ cảnh xuân tình, nửa trang dưới là lời bạt, mấy câu đều giải thích sự việc, mấy câu sau ca tụng tài nghệ của người vẽ, tất cả đều là bút phê của các bậc danh nhân.
Bán Dạ Sinh dặn nàng tưởng tượng như đang ở trong cuộc, thấm nhuần tinh thần từng bức họa để sau này bắt chước cho khéo. Sinh vừa xem vừa đọc cho nàng nghe.
Bức thứ nhất vẽ thế Túng điệp cầm phong (mặc bướm tìm hương). Lời bạt ghi: người nữ ngồi bên hòn non bộ, hai chân bẹt ra, người nam đưa ngọc hành vào âm cung, luồn bên này lách bên kia nhu bướm tìm nhị hoa. Bấy giờ:vì nam, nữ mới nhập cuộc chưa đến hồi cụp lạc, nên mắt họ giương to, trông không khác lúc bình thường cho lắm.
Bức thứ hai vẽ thế giáo phong nhưỡng mật (ong khôn lo hút mật), lời bạt ghi: Người nữ nằm ngữa trên chăn bông, tay nắm ch8ạt hai vế đưa lên cao để đón ngọc hành, người nam do d0ó, thấy rõ nhị hoa ở chỗ nào, tùy tiện tấn công. Bấy giờ vẽ mặt người nữ khao khát, còn người nam thì mặt mày gay cấn, khiến người xem phải hồi hộp, lo âu giùm, rõ thật tạo hóa trớ trêu.
Bức thứ ba vẽ thế Mê điểu quy lâm (chim lạc bay về rừng). Lời bạt ghi: người nữ nằm trên giường, hai chân giơ lên, hai tay đỡ vế của người nam, người này từ trên ấn thẳng xuống, nom như chim kia đi lạc đã lâu, thấy rừng cũ lao thẳng về. Nam nữ thần khí bừng bừng nét vẽ kỳ diệu chẳng khác nào bút bay mực múa vậy.
Bức thứ tư có tên Ngạ mã bôn tào (ngự đói tìm máng cỏ). Lời bạt ghi: Người nữ nằm trên giường, hai tay ôm quàng lấy người nam, trông như bị buộc bào nhau, hai chân gác lên vai của người nam. Ngọc hành mất hút vào trong âm cung, khít khao không hở một chỗ nào như ngựa đói vục đầu ăn cỏ trong máng vậy. Bấy giờ cả hai như lả người đi, mắt định nhắm mà vẫn muốn trông, lưỡi định thụt vào mà vẫn thè ra. Nét vẽ rất thần tình.
Bức thứ năm vẽ thế Song long đấu luyện (hai rồng mệt đấu nhau). Lời bạt ghi: Ðầu người nữ kê bên gối, hai tay buông xuôi mềm mại như bông, đầu người nam thì dựa bên tai người nữ, toàn thân buông xuôi cũng mềm mại như bông. Bấy giờ hai người đã thỏa, hồn thả theo mộng đẹp, lặng lẽ sau cơn kích động mạnh, tuy nhiên hai chân của người nữ vẫn còn gác trên hai vai của người nam chưa hạ xuống, thần thái ẩn vẻ sinh động, nếu không có khác gì hai tử thi, người xem khoái cảm đến cực độ, tưởng chừng mình cũng đang cùng họ “chung quan chung huyệt” vậy.
Xem đến đây, Quý Hương bất giác không dằn được nỗi hứng tình, Bán Dạ Sinh định lật sang trang khác. Sinh đang định lật sang trang khác xem tiếp với nàng thì nàng đẩy quyển sách ra rồi đứng dậy, uể oải nói:
“Sách hay ở chỗ nào, làm người ta thấy khó chịu. Anh xem một mình đi, em đi ngủ đây”.
Bán Dạ Sinh ôm nàng vào lòng cười nói:
“Em cưng, trang sau còn hay lắm, xem xong mình sẽ đi ngủ”.
Quý Hương nói:
“Chẳng lẽ ngày mai không còn thì giờ để xem hay sao, làm gì nhất định phải xem cho hết ngày hôm nay.”
Bán Dạ Sinh biết nàng đã động lòng, bèn kề miệng lại mà hôn. Cả tháng nay, vợ chồng tuy đã ăn ở với nhau, nhưng Bán Dạ Sinh nào biết lưỡi vợ dài ngắn, vì mỗi lần Sinh định hôn, miệng nàng dều mím lại. Lần này thì khác, miệng hoa hé nở, lưỡi nàng còn êm ái giao tiếp với chồng.
Bán Dạ Sinh nói:
“Em cưng, mình không cần lên giường làm chi, cứ coi ghế này là hòn non bộ rồi bắt chước theo sách mà làm, xem sao.”
Quý Hương làm mặt giận, nói:
“Bừa bãi như vậy há có phải là con người nữa không?”
Bán Dạ Sinh nói:
“Rõ ràng không phải việc của người, mà là việc của thần tiên. Anh với em thử làm thần tiên với nhau một lát nhé.”
Nói xong, Sinh đưa tay lần cởi giải lưng nàng. Quý Huơng tuy ngoài miệng không chịu nhưng bụng đã ưng. Nàng chịu gác chân lên vai để mọi sự dễ dàng.
Cởi xong quần ra, với nhau thấy ướt một khoảng, thì biết nàng đã rịn dâm thủ trong khi xem tranh. Sinh cũng tháo quần mình, đặt nàng ngồi trên bụng,dang hai đùi mà đưa dương cụ vào âm cung, xong xuôi mới cởi nốt áo phần trên mình vợ. Tại sao không bắt đầu từ trên xuống, lại cởi quần trước rồi mới đến áo? Phải là tay sành sỏi như Bán Dạ Sinh mới làm như thế, vì nếu cởi áo trước, người nữ mặc dầu trong lòng rất nôn nóng, nhưng ngoài mặt vẫn còn e thẹn, do đó dễ gặp kháng cự. Còn khi đại tướng nơi bản doanh đã bị kềm chế rồi thì các nơi khác muốn làm gì chả được. Binh pháp gọi đó là Cầm vương đảo huyệt (đập hang bắt vua).
Quả nhiên Quý Hương riu ríu để Sinh từ từ lột sạch quần áo.
Bán Dạ Sinh cũng cỡi hết y trang trên mình, khởi cuộc mây mưa.
Hai chân nàng dang ra hai bên ghế, dương vật vào trong rồi cứ thế mà theo bức họa thứ nhất mà thực hành, hết cạ bên nọ lại cào bên kia. Nàng soải tay với nắm hai thành ghế, hạ thể nhấp nhô đáp ứng phu quân, ngẫu nhiên theo đúng bức họa số hai trong Xuân cung. Bỗng dương cụ chạm đến một nơi mà nàng bỗng cảm thấy tê nhưng không phải tê, mê nhưng cũng không biết có phải là mê, nhột mà như ngứa, chịu không thấu mà bỏ không đành.
Nàng nói:
“Một chỗ ấy thôi anh ơi”.
Bán Dạ Sinh biết nhị hoa đã chạm, nên càng ra sức tróc nã trong cấm địa, dồn hết sức lục công kích một nới mà thôi. Một cách dìu dặt, ngọc hành dần dần trổ tài, hết đi từ cạn đến sâu, lại đi từ chậm đến nhanh, trước sau ra vô tới mấy trăm lần. Hai tay Quý Hương bất giác ôm ghì lấy mông Sinh, người nảy lên, nhục thân như ra công vây hảm chặt tướng địch đang hỗn xược tung hoành, tình thế gay cấn, thật không khác tình trạng bức họa đồ số ba. Bán Dạ Sinh cũng lấy tay o bế hạ thể nàng, nhưng trơn tuột không biết bám tay vào đâu, vì dâm thủy lêng láng khắp cả.
Bán Dạ Sinh nghĩ thầm:
“Cô này đang đê mê cực độ, lẽ ra còn phải phá ccô ấy một phen. Nhưng đây là bước đầu, phải để cô ấy thật no say đã rồi mới áp dụng phép nuôi vịt.”
Sinh bèn nhắc chân nàng lên vai, hai tay ôm lấy eo thon của nàng tiếp tục thẳng cánh thọc vào.
Bấy giờ ngọc hành trơ trẻn và hùng hổ hơn, lấp hết âm cung không chừa một chỗ trống. Sinh lại thúc đẩ thêm vài trăm lần nữ. Mắt Quý Huơng trở nên mông lung đờ đẫn, tóc tai xổ tung, thân thể lả ra như người buồn ngủ.
Bán Dạ Sinh vuốt ve nàng, nói:
“Em cưng, anh biết em sắp tới bờ rồi. Trên ghế này không tiện, mình lên giường tiếp tục nhé”.
Quý Huơng đang hồi khẩn trương, sợ bỏ lên giường thì không khỏi ngọc hành rút ra ngoài mất, hứng thú gián đoạn, huống chi lúc bấy giờ chân tay rũ liệt không thể nhấc lên được, có muốn lên giường cũng không tự đi dược. Vì vậy nghe Sinh đề nghị, nàng nhắm mắt lắc đầu.
Bán Dạ Sinh nói:
“Em cưng, em không đi nổi phải không?”
Quý Hương gật.
Bán Dạ Sinh nói:
“Anh không nỡ để em đi. Anh bồng em lên nhé”
Sinh bèn ôm chặt lấy tấm lưng thon, miệng nút chặt lưỡi nàng, dương cụ vẫn khắn khít nơi xuân cung hkông rời, ẵm nàng lên dập dình đi theo kiểu “tẩu mả khán hoa” (cỡi ngựa xem hoa). Ðến giường, Sinh đặt Quý Hương xuống, lấy gối chêm dưới eo nàng, rồi cong chân nàng lại, thúc đẩy thêm vài trăm lần nữa.
Quý Hương bỗng rên lên:
“Anh yêu, em chịu hết nổi rồi”
Chỉ nói được bấy nhiêu, rồi nàng ôm chặt Bán Dạ Sinh mà rên như người s8áp chết.
Bán Dạ Sinh biết âm tinh đã ra, nên nhắm vô nhị hoa, từ bên tên nhấn ngọc hành mạng thêm như thể bồi cho nàng chết luôn. Quý Hương liền hồn siêu phách lạc.
Rồi hai người ôm nhau lả ra mà ngủ. Hồi lâu Quý Hương cựa mình, nói:
“Anh yêu, em mới chết đi sống lại, anh có hay không?”
Bán Dạ Sinh nói:
“Sao anh không hay. Như thế không gọi là chết, mà là đê mê”
Quý Hương nói:
“Thế nào là đê mê?”
Bán Dạ Sinh nói:
“Nam có dương tinh, nữ có âm tinh. Lúc hành lạc, khi khoái cảm lên đến cực dộ, thì tinh suất. Lúc sắo xuất tinh, thì từ da thịt đến gân cốt thảy dều tê cứng, hồn phách mê mẩn, rồi tinh mới xuất. Như thế là đê mê, như trong bức họa Xuân cung số năm ban nãy. Em đã xem qua, chẳng lẽ không nhớ sao?”
Quý Huơng nói:
“Theo anh nói đê mê xong có thể tỉnh lại, có nghĩa là không chết, phải không?”
Bán Dạ Sinh nói Người nam, người nữ mỗi lần làm tình với nhau có đê mê. trong khi người nam đê mê có một lần thì người nữ, nếu âm tinh chưa ra vẫn có thể đê mê mấy chục lần. Ðê mê là cực khoái, chớ có phải là chết đâu.”
Quý Hương nói:
“Khoái lạc như thế, dẫu chất cũng vui, huống chi là không chết. Như thế này thì từ nay về sau, ngày nào em cũng đê mê, đêm nào em cũng đê mê”.
Bán Dạ Sinh cười to:
“Em thấy chưa, anh nói có sai đâu, cuốn Xuân cung này có phải bửu bối hay không”
Quý Huơng nói:
“Ðúng là bảo vật. Chỉ sợ bạn anh đòi về”
Bán Dạ Sinh nói:
“Nói gạt em chơi, chứ thật ra sách này của anh mua.”
Quý Hương nghe xong, vui mừng khôn xiết nên bật cười. Ân ái xong, hai người trở dậy vận y phục rồi cung nhau tiếp tục xem quyển Xuân cung, đến khi cao hứng, lại cùng nhau ân ái. Kể từ hôm ấy, hai vợ chồng trở nên tâm đầu ý hiệp, đường tình càng thêm khắng khít.
Từ khi xem Xuân cung, Quý Hương đã vơi lễ giáo, thành môn sinh chăm chỉ trong trường phong lưu, ngày đêm không quản ngại thực hành cách thức mới của thú gió trăng trong sách, dẫu táo bạo khó khăn đến đâu cũng thực tập cho được, hoặc trồng chuối theo “đảo điêu lập chúc”, ôm mông như “cách sơn thủ hỏa”. Rồi thì ba tất sen vàng gác lên vai chồng mà ngủ, có muốn hạ xuống lại không phải dễ.
Rồi dần dần trong khi ân ái, tiếng động da thịt cọ xát, nào tháo độ hăng say dâm cuồng giúp cho cuộc mây mưa thêm phần nồng thắm, tất cả đều không thiếu. Và để tăng thêm hứng thú, Bán Dạ Sinh còn dến tiệm sách mua về các loại sách phong tình, như Tú Tháp dã sữ, như Quân truyện, như Bà tử truyện, cả thảy một hai chục cuốn đóng thành bộ, để trên bàn cho nàng xem lúc nào cũng được, còn sách đã đọc xong trước kia thì bó lại cất, chỉ e nàng bỏ mới ôn cũ, mà trở về vẻ đạo mạo như ngày trước. Tình vợ chồng thắm thiết, hòa hợp, vui sướng hơn bao giờ, nay thì dù có vẽ ba trăm sáu mươi bức xuân cung cũng không diễn tả cho hết được
Có thể nói, Bán Dạ Sinh đến đây là khoan khoái tột độ rồi, riêng có một diều là trong hki vợ chồng hết sức hài hòa, thì giữa ông nhạc và chàng rể có chút gì không hợp. Nguyên nhân là Thiết phi đạo nhân vốn cố chấp, thích chất phác ghét phồn hoa, không ưa chuyện trăng hoa, chỉ mến bàn về vấn đề đạo lý.
Từ khi Bán Dạ Sinh vào ở rể, trông thấy Sinh ăn mặc diêm dúa, bảnh bao, đạo nhân cảm thấy buồn rầu, đâm ra hối hận, than thầm:
“Gã này chỉ có cái mã mà không có cái ruột, chắc không nên người, con gái ta còn biết nương tựa vào đâu. Nhưng sính lễ đã nhận, duyên châu trần đã kất, không thể thay đổi gí được nữa. Thôi đành đã lỡ tính theo lỡ, tùy cơ mà răn đe, dạy dỗ nó nên người đứng đắn”.
Vì vậy từ lối ăn mặc tiếng nói đến việc đi đứng ngồi nằm, nhất nhất đều để tâm sử trị.
Lời xưa nói rất đúng “giang sơn dí cải, bỉnh tính nan di”, Bán Dạ Sinh tâm tính trẻ tuổi, lại cha mẹ mất sớm, chưa từng bị người lớn kềm chế, nân ai dễ gì bắt bẻ được. Vì vậy có mấy lần Sinh bất bình cha vợ. Có điều nghĩ đến tình vợ chồng sợ bị sứt mẻ, Sinh đành nhẫ nhục, nhưng nhịn mãi rồi cũng tới mức mà thôi.
Sinh Dành dấu Quý Hương mà, bàn riêng với nhạc phụ:
“Con vốn quê mùa cục mịch, trên thiếu thầy giỏi, dưới vắng bạn hiền, do đó học hành không tiến, công danh chẳng đạt. Nên con muốn xin phép bái biệt nhạc phụ đi đó đi đây, trước là để mở rộng kiến văn, sau là tìm thầy chọn bạn học hành, đọi khoa thi, may ra đỗ đạt hầu xứng với công ơn nhạc phụ đã chọn con làm rể, ý nhạc phụ nghĩ sao?”
Thiết phi đạo nhân nói:
“Từ khi con vào làm rể nhà ta đến nay đã được nữa măm rồi, nay mới có câu nghe được, chứ mọi khi toàn lời lẽ của bọn đãng tử. Con chịu đi xa cầu học là điều rất tốt, sao ta lại không bằng lòng.”
Bán Dạ Sinh nói:
“Cha đã bằng lòng, nhưng e vợ con lại trách con bội bạc, ăn ở với nhau chưa được bao lâu mà đã vội đi xa, chi bằng cha cứ nói đây là ý cha muốn, không can gì đến con, để con ra đi khỏi trở ngại”
Ðạo nhân nói:
“Cũng phải”
Thế là việc bàn tính đã quyết. Trước mặt con gái, đạo nhân khuyên rể đi xa cầu học. ra vẻ không chịu, đạo nhân bèn làm mặt giận, bấy giờ Bán Dạ Sinh mới chịu vâng lời.
Quý Huơng đang thời say mê khoái lạc, bỗng nghe nói chồng sắp ra đi thì chẳng khác nào trẻ con bị dứt sữa, vô cùng buồn khổ.
Thế là nơi buồng the, mây mưa dập dồn nối tiếp, cốt để bù trước những lúc thiếu thốn sau này. Riêng Bán Dạ Sinh cũng hiểu, rằng trên con đường muôn dặm lẻ loi, không chắc gì nhất thời tìm được một giai nhân nào, nên dốc lòng ra sức để thỏa mản vợ, chẳng khác mình đặt tiệc đãi người, mà thực sự để mình cùng hưởng.
Qua mấy đêm ân ái mặn nồng, ai mà không bảo thật là một đôi vợ chồng keo sơn gắn bó, duy chỉ có người trong cuộc mới tự biết các tâm sự khác biệt mà thôi.
Lúc sắp lên đường, nó lời trấn an, để lại mọi thứ, chỉ đem theo hai tên gia đồng cũ trước kia.