“Nguyên lại tiên sinh mỗi đêm đều tới đây giúp người điên này trị thương…” Tiểu Nguyên nhu nhu hỏi.
“Vậy chứ ngươi nghĩ ta mỗi đêm ra ngoài làm gì?” Đỗ Ngôn Chi nhếch hai hàng chân mày, vừa rửa tay, vừa hỏi, trên mặt lộ ý muốn xem kịch vui.
Quả nhiên Tiểu Nguyên lúc đó mặt vừa đỏ, vừa trắng.
“Trần phủ xảy ra đại án, người khác không biết cứ tưởng hắn do hắn làm, cứ đến tìm hắn tính sổ, thường xuyên như vậy khiến hắn bị thương.” Đỗ Ngôn Chi làm như không thấy vẻ mặt của Tiểu Nguyên, tự mình giải thích.
Tiểu Nguyên xấu hổ vô cùng, giậm chân xẵng giọng: “Tất cả là tại tiên sinh, nếu trước đó nói cho Tiểu Nguyên biết một tiếng thì Tiểu Nguyên hà tất phải lo lắng như vậy.”
Đỗ Ngôn Chi muốn cười, nhưng nhất thời không chịu nổi, đứng dậy ho một tràng. Tiểu Nguyên kinh hãi, chạy lên phía trước đỡ y, vỗ vỗ lưng y để thuận khí. Đỗ Ngôn Chi gập người xuống, lấy tay áo che miệng, họ tới không thở nổi. Thấy Tiểu Nguyên vẻ mặt kinh hoàng, cùng dã nhân đứng bên cạnh cũng vô cùng lo lắng, nóng lòng muốn chạy đến, rồi lại không dám, vì vậy Đỗ Ngôn Chi cố gắng kềm nén, đứng thẳng dậy, nói: “Ta không sao.” Y quay sang dã nhân kia nói: “Ngươi mấy ngày này không được chạy lung tung ra ngoài, cứ ở đây dưỡng thương đi.”
Dã nhân lặng lẽ gật đầu.
Đỗ Ngôn Chi đứng không vững nữa, không muốn nói nhiều, bèn bảo Tiểu Nguyên đưa y về.
Về đến nơi, Tiểu Nguyên hầu hạ y nằm xuống, vừa châm ngọn đèn đã thấy môi y trắng nhợt, sắc mặt tái như tờ giấy, lòng nóng như lửa đốt, xoay người định chạy ra cửa. Đỗ Ngôn Chi kéo tay hắn hỏi: “Ngươi đi đâu vậy?”
“Tìm đại phu.”
“Giờ là nửa đêm, tìm đại phu ở đâu chứ? Ngươi muốn làm kinh động đến mọi người trong phủ sao? Huống chi bệnh ta ta biết, cũng chưa đến nỗi nào, chỉ hơi mệt thôi. Ta chính là đại phu, không cần phải tìm kẻ khác đến nghe già mồm.”
“Nhưng mà…”
“Được rồi, ta ngủ một giấc là ổn thôi, ngươi cũng mệt rồi, nhanh đi nghỉ đi.”
“Không được, tiên sinh như vậy, hỏi ta làm sao ngủ được?”
“Ta có dược mà, uống rồi sẽ không sao nữa. Ngươi ở đây, ta làm sao nghỉ ngơi chứ?”
Tiểu Nguyên cắn môi suy nghĩ một chút, miễn cưỡng gật đầu. “Vậy tiên sinh uống thuốc liền đi.”
Đỗ Ngôn Chi cười khổ, tùy ý hắn hầu hạ mình uống dược. Lúc bấy giờ, Tiểu Nguyên mới chịu rời đi.
Đỗ Ngôn Chi nằm một mình trên giường, lồng ngực đau đớn, trằn trọc mãi không thể nào ngủ được, chân trái cũng đan đớn tê tái. Lăn qua lăn lại tới bình minh, mới mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi.
Còn chưa kịp tỉnh ngủ, Đỗ Ngôn Chi đã nghe Trương Kha đã ở bên ngoài cầu kiến, nói là quan viên do kinh thành phái tới đã đến ngoài thành.
Đỗ Ngôn Chi cũng không đứng dậy, miễn cưỡng nói: “Đi tiếp đón bọn họ cho tốt đi.”
Trương Kha lĩnh mệnh đi, Tiểu Nguyên lại ở ngoài gõ cửa, cũng không chờ y trả lời liền đẩy cửa vào phòng.
“Ta nghe nói hai người trong Tứ đại danh bộ là Truy Mệnh và Thích đại hiệp đã đến.” Tiểu Nguyên vẻ mặt tràn đầy hưng phấn.
“Mới sáng mới ngươi xông vào phòng ta chỉ vì việc này sao?” Đỗ Ngôn Chi cười khổ.
Tiểu Nguyên thấy vẻ mặt y mệt mỏi rã rời, tuy tinh thần vững vàng nhưng thần sắc khó che giấu được bệnh tật. Vì vậy, trong bụng nhộn nhạo không yên, thấp giọng nói: “Không phải đâu. Kiến Tính đại sư của Không Ẩn Tự sáng nay gửi đến một phong thư.”
Đỗ Ngôn Nhi nhận thư, mở ra xem, trên thư đề duy nhất một câu kệ:
Văn-thù, ngài nên biết, tất cả các Như Lai đều dùng trí Viên giác. Thấu suốt cả vô minh, biết kia như không hoa, thì ắt khỏi lưu chuyển, lại như người trong mộng, khi tỉnh chẳng có gì, tính giác như hư không. Bình đẳng chẳng động chuyển, tính giác khắp mười phương. Liền được thành Phật đạo, các huyễn diệt không chỗ. Thành đạo cũng không thành, bản tính vốn viên mãn. Bồ Tát ở trong ấy, hay phát tâm Bồ đề. Các chúng sinh đời sau, tu đây khỏi tà kiến. (*)
(*) GIẢNG:
Chúng ta thấy trong bài trùng tụng Phật lặp lại thật là đầy đủ ý nghĩa trên. Trước hết là nói nhân địa của tất cả chư Phật tu hành đều từ nơi trí tuệ giác chiếu. Do dùng trí tuệ giác chiếu nên thấy rõ vô minh, biết nó như hoa đốm trong hư không nên ra khỏi luân hồi sanh tử. Cõi đời này giống như giấc mộng. Mộng dụ cho vô minh, khi vô minh thì thấy người thật cảnh thật, khi tỉnh thì thấy người không thật cảnh không thật, nên nói tỉnh rồi thì không có gì cả. Tánh giác ví dụ như hư không bình đẳng không động. Vì hư không bình đẳng nên bao dung tất cả mọi loài. Hư không không động, nếu có động là gió động bụi bay, chứ hư không lúc nào cũng bất động. Cũng vậy, vọng tưởng là động, còn tánh giác thì bình đẳng không động, bởi bình đẳng không động nên trùm khắp cả mười phương. Người hằng sống với tánh giác tạm nói là thành Phật. Các huyễn diệt rồi cũng không có chỗ diệt, thành đạo rồi cũng không có gì gọi là chứng. Bởi vì sao? Vì tánh giác vốn viên mãn nên khi vô minh hết thì tánh giác tròn sáng. Cũng như khi ngủ mộng thấy cảnh thấy người… nhưng khi thức thì cảnh người cũng không còn, khi thức thì biết thức thôi, chứ có nói là tôi được thức không? Đâu có cái gì mà được? Sự tu cũng vậy, tu để dẹp vô minh, khi vô minh hết thì tánh giác hiện tiền. Nếu còn thấy được là còn có cái bị được và người hay được, như vậy là còn năng còn sở thì không thể gọi là thành Phật. Các Bồ-tát ở trong đây tu hạnh Bồ-đề, các chúng sanh đời sau y đây mà tu thì không rơi vào tà kiến.