Trong thời gian tu luyện ở núi Côn Luân, tôi đã kết thân với lão gấu xám kém tôi cả trăm tuổi. Linh khí của gấu xám không mấy dồi dào nên tu luyện đến chừng một trăm tuổi thì lão chẳng thể tiếp tục. Lão thành ra già nua, yếu ớt, mắt hoa, chân chậm, tai kém, những dấu hiệu đó cho thấy lão không sống được bao lâu nữa. Thế nhưng lão đã thọ thêm ngót nghét mười năm nhờ chăm chỉ lén theo bậc trí giả[1] của đất Wusi, đại sư Ban Trí Đạt, thuộc giáo phái Sakya, để nghe ngài biện kinh, giảng pháp, từ đó giác ngộ và tăng thêm tuổi thọ.
Trong năm năm cuối đời, không biết ma xui quỷ khiến thế nào mà lão gấu xám lại tình cờ lọt vào sơn động của tôi. Đuổi lão đi thì dễ thôi, nhưng tôi quyết định giữ lão ở lại. Lý do rất đơn giản: suốt một trăm năm ròng tôi không có ai để trò chuyện.
Lão gấu xám bị nặng tai nên tôi cứ phải ghé sát tai lão mà gào lên thì lão mới nghe thấu. Tuy giao tiếp khá vất vả nhưng chúng tôi đã sống rất vui vẻ. Lão kể với tôi rất nhiều câu chuyện về Ban Trí Đạt mà lão nghe được hoặc được tận mắt chứng kiến. Tôi có cảm giác lão sùng bái ngài Ban Trí Đạt hơn cả Phật Tổ.
Ba năm trước, ngài Ban Trí Đạt tổ chức một pháp hội rất lớn, lão gấu xám đã dẫn tôi đi nghe lén. Chẳng ngờ hôm đó, ngài Ban Trí Đạt không đăng đàn giảng pháp mà để một cậu bé chín tuổi lên thuyết giảng kinh Phật. Còn nhớ lúc đó, hàng nghìn nhà sư cùng đến nghe giảng pháp, khi nhìn thấy đứa trẻ vắt mũi chưa sạch ấy, họ chỉ trỏ bàn luận, vẻ khinh miệt phơi bày không giấu giếm. Nhưng cậu bé mới chín tuổi ấy đã bước lên pháp đài với vẻ đĩnh đạc, điềm tĩnh, pháp tướng trang nghiêm, cất giọng rành rọt, thuyết giảng cuốn Kỷ kim cương tục đệ nhị phẩm.
Cậu bé có giọng nói trong trẻo, thanh thoát ấy đã nêu ra nhiều dẫn chứng nhằm tăng thêm sức thuyết phục cho các luận điểm của mình. Những tăng nhân mới đầu tỏ ra xem thường thì giờ đây cũng đang lắng nghe mê mải, gật đầu lia lịa. Tôi cũng vậy, tôi vốn rất buồn vì không được nghe ngài Ban Trí Đạt thuyết pháp, nhưng sau đó, tôi nhận thấy mình đã “thu hoạch” được rất nhiều từ bài giảng của cậu ấy, và cũng giống những người khác, tôi thực sự thấy khâm phục cậu bé. Câu nói: “tuổi trẻ tài cao” hoàn toàn đúng với trường hợp của cậu bé này.
Lão gấu xám không nghe lọt câu nào, còn tôi, nhờ vào thính giác nhạy bén siêu phàm của loài hồ ly, dù đứng cách rất xa, tôi vẫn nghe rõ từng lời. Tôi vừa nghe vừa ghé sát tai, giảng lại một lượt cho lão gấu xám. Lão cho tôi hay, cậu bé này là cháu trai của ngài Ban Trí Đạt, chính là thần đồng Bát Tư Ba mà người đời xưng tụng là bậc “thánh giả”.
Không lâu sau buổi pháp hội ấy, lão gấu xám qua đời, tôi tiếp tục cuộc sống cô độc. Tôi chôn lão cạnh sơn động, nơi mà trước đó tôi đã lần lượt an táng từng người thân của mình. Những lúc muốn trò chuyện, tôi lại ra đó, lẩm bẩm độc thoại một hồi. Tôi rất muốn được đến nghe giảng kinh một lần nữa, nhưng người ta bảo ngài Ban Trí Đạt đã dẫn Bát Tư Ba đi xa, không biết khi nào trở lại Sakya. Sau đó, tôi bị mắc bẫy của thợ săn. Không thể tin rằng tôi đã gặp lại cậu ấy ở đất Lương Châu xa xôi, cách Sakya cả ngàn dặm này.
Nhưng tôi chẳng còn nhớ rõ hình dáng của cậu bé ấy nữa. Ngày đó đi nghe giảng pháp, chúng tôi biết thân biết phận nên nào dám đến gần chỗ đông người. Đứng từ xa, tôi chỉ thấy bóng chiếc áo tăng ni màu đỏ sẫm thấp thoáng trên pháp đài. Các cậu bé thường lớn rất nhanh, chỉ ba năm thôi cũng có thể khiến dung mạo và hình dáng của họ thay đổi rất nhiều. Lấy ví dụ, giọng nói trong veo ngày ấy giờ đây đã chuyển sang giọng khàn khàn của giai đoạn vỡ tiếng, làm sao nhận ra nổi?
Không hiểu sao, khi biết cậu bé này chính là Bát Tư Ba năm xưa, tôi cảm thấy mừng vui khôn xiết. Tuy rằng cậu ấy không hề biết ba năm trước có một tiểu hồ ly từng đến nghe mình giảng pháp nhưng tôi thì khác, tôi có cảm giác thân thiết như người ta gặp lại người thân của mình nơi đất khách vậy. Trong tôi dấy lên một niềm tin gần như tuyệt đối rằng, Phật Tổ đoái thương, cho tôi gặp được bậc thánh giả Bát Tư Ba, tôi được cứu mạng rồi!
- Đó chỉ là những lời đồn thổi vu vơ, công tử chớ cho là thật, xin cứ gọi bần tăng là Lâu Cát.
Mặt đỏ như gấc chín, cậu ấy bối rối phủ nhận, nhưng còn chưa kịp nói đôi lời khách sáo thì Khởi Tất đã kéo cậu ấy vào phòng khách. Đoán định được tình thế, lão thợ săn vội vã xách chiếc lồng, lặng lẽ bám theo.
- Ồ, Lâu Cát ư? Cái tên này có nghĩa là gì? – Không kìm nổi sự tò mò, Khởi Tất vừa đi vừa hỏi.
- Thưa công tử, từ này có nghĩa là sinh vào năm Mùi. Bần tăng sinh năm Mùi nên người bác và người mẹ quá cố đều gọi bần tăng như vậy.
Khởi Tất trầm ngâm một lát rồi hỉ hả tán thưởng:
- Sinh năm Mùi, tức là năm nay thầy mới mười hai tuổi, quả là tuổi trẻ tài cao!
Vào đến phòng khách, Khởi Tất mời Bát Tư Ba ngồi xếp bằng trên thảm, sau đó khoát tay ra lệnh cho người hầu dâng trà:
- Sáu năm trước, cha ta từng cử bộ tướng tấn công Wusi. Nhưng ngay sau đó, ông nhận thấy sự cần thiết phải mời một vị cao tăng đại đức giữ vai trò là lãnh tụ tinh thần của cả vùng núi cao băng tuyết quanh năm ấy. Đại sư Ban Trí Đạt của giáo phái Sakya là người đức cao vọng trọng, danh tiếng của ngài lan khắp bốn phương. Cha ta đã đích thân viết thư mời ngài đến Lương Châu để bàn bạc về việc thu phục Wusi. Đại sư Ban Trí Đạt là hóa thân của Bồ Tát Văn Thù, không quản tuổi cao sức yếu, không nề hà đường xa vạn dặm, lặn lội từ Sakya, ròng rã suốt hai năm trời để đến Lương Châu. Hẳn là các vị đã phải vượt qua muôn vàn gian nan, khổ ải trong suốt chuyến đi này.
Bát Tư Ba nhấp một ngụm trà, khẽ thở dài, vẻ mặt đầy trăn trở, âu lo, không tương xứng với tuổi tác chút nào:
- Cảm tạ sự quan tâm của công tử, bần tăng thì không sao, chỉ tội cho cậu em trai Kháp Na Đa Cát của bần tăng, lúc rời khỏi Sakya nó mới có sáu tuổi. Suốt quãng đường đi, dù phải chịu bao nhọc nhằn nó cũng đã gắng gượng chịu đựng, không hề khóc lóc, than vãn khiến kẻ làm anh như bần tăng đây cũng lấy làm khâm phục. Bác của bần tăng khi ấy đã sáu mươi ba tuổi, tuổi cao sức yếu, trên đường đi thường hay hắt hơi, sổ mũi, mình mẩy
đau nhức…
Khởi Tất gật đầu cảm thông, cất lời động viên:
- Lát nữa ta sẽ cho thầy thuốc đến coi bệnh cho ngài. Các vị vừa đến thì cha ta cũng lên đường tham dự hội nghị Kurultai[2]. Trong thời gian lưu lại Lương Châu, nếu các vị cần gì, xin cứ nói với ta.
Bát Tư Ba lịch sự cảm ơn, mới mười hai tuổi nhưng phong thái đĩnh đạc, ứng xử nho nhã, biểu cảm chân thành của cậu ấy đã rất được lòng Khởi Tất. Cuộc chuyện trò ngày càng trở nên thân mật:
- Cũng mừng là ta đã nhận được thư của cha, báo rằng đại hội Kurultai đã kết thúc, người bác Quý Do của ta sẽ kế thừa ngôi vị Đại hãn của ông nội Oa Khoát Đài của ta[3] nên cha ta đã lên đường trở về Lương Châu. Chắc khoảng một tháng nữa, cha ta và đại sư Ban Trí Đạt có thể gặp nhau.
Khởi Tất nhấp một ngụm trà rồi nhón một viên kẹo sữa chua bỏ vào miệng.
- Các vị có thiếu thốn gì không? Hôm nay được gặp thầy ở đây, ta lấy làm vui mừng khôn xiết, ta nhất định phải tặng thầy món quà gì đó để tỏ lòng hiếu khách truyền thống của người Mông Cổ chúng ta.
Bát Tư Ba liếc nhìn lão thợ săn lúc này đang sợ hãi thu mình trong góc nhỏ. Tôi bám vào thanh sắt, lách chiếc mũi nhọn ra khỏi lồng, van lơn khẩn thiết.
Cậu ấy khẽ gật đầu với tôi, ánh mắt ấm áp mà tự tin, sau đó quay lại chắp tay cung kính thưa với Khởi Tất:
- Công tử có thể tặng bần tăng bất cứ thứ gì bần tăng muốn ư?
- Tất nhiên rồi, ha ha, chỉ cần có thể tìm được thứ đó, ta nhất định sẽ tặng cho thầy. – Khởi Tất hào phóng đập tay xuống chiếc bàn trà thấp. – Người anh em nói ta nghe, thầy muốn có thứ gì?
- Bần tăng muốn có tiểu hồ ly này. – Bát Tư Ba trỏ ngón tay về phía chiếc lồng giam cầm tôi, ánh mắt giàu lòng nhân từ ấy thanh tịnh như một đài hoa sen. Sau đó, cậu quay lại chăm chú quan sát biểu cảm của Khởi Tất. – Loài hồ ly mắt xanh, lông xanh vốn là kết tinh khí thiêng của cả trời và đất, được Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni giáo hóa. Nếu ai đó định sát hại nó, chắc chắn sẽ bị Phật Tổ giáng tội. Cúi xin công tử mở lòng từ bi mà tha cho nó, xem như tích chút công đức cho mình.
====
[1] Chỉ những người tài trí hơn người, kiến thức uyên bác, sâu rộng. (DG)
[2] Còn gọi là hội nghị Hốt Lý Đài hay Hốt Lý Lạc Đài, đại hội lựa chọn ra Đại hãn (vua) của quý tộc Mông Cổ. Ngôi vị Đại hãn của người Mông Cổ không phải “con nối nghiệp cha” theo truyền thống của người Hán, mà do các quý tộc bầu chọn.
[3] Sau khi Thành Cát Tư Hãn qua đời, người con thứ ba của ông là Oa Khoát Đài đã được chọn làm Đại hãn. Oa Khoát Đài mất năm 1241. Quý Do là con trai cả của Oa Khoát Đài, ông được chọn làm Đại hãn năm 1246.
Tôi nhìn nét mặt rất đỗi nghiêm trang của Bát Tư Ba mà không khỏi áy náy. Thực ra tôi chỉ là một yêu tinh nhỏ bé, làm gì có được vinh hạnh được Phật Tổ che chở kia chứ! Khởi Tất sững sờ, đưa mắt về phía lão thợ săn. Lão ta cũng bị bất ngờ mà ngây ra như phỗng, bàn tay xách chiếc lồng bỗng run run. Khởi Tất khẽ hắng giọng:
- Da của con hồ ly này có rất nhiều tác dụng…
Giọng nói của Khởi Tất cho thấy anh ta rất luyến tiếc. Bát Tư Ba đứng lên, bước tới trước mặt Khởi Tất, quỳ gối, chắp tay lại, cầu xin khẩn thiết:
- Nếu công tử bằng lòng tha cho tiểu hồ ly này, Lạc Truy Tán Đức xin kết bằng hữu với công tử, suốt đời tụng đọc kinh Phật cầu phúc cho công tử. Và nếu công tử có yêu cầu gì, bần tăng nguyện hết lòng vì ngài.
Khởi Tất không giấu nổi xúc động, vội đỡ Bát Tư Ba đứng lên, xúc động mà rằng:
- Hay lắm, ta xin được kết huynh đệ với thầy, ngày sau hai ta có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu. Chẳng qua chỉ là một con hồ ly thôi mà, thầy thích thì ta tặng thầy.
Khởi Tất khoát tay ra hiệu cho lão thợ săn giao tôi cho Bát Tư Ba. Lão thợ săn mặt ủ mày chau bước lên phía trước, trao chiếc lồng cho Bát Tư Ba nhưng bàn tay vẫn cố bám lấy chiếc lồng không chịu buông, miệng lắp bắp không thành tiếng, ánh mắt hướng về phía Bát Tư Ba đầy vẻ cầu khẩn.
Bát Tư Ba thấu hiểu tâm can của lão ta, bèn buông chiếc lồng ra, quay đầu lại gọi:
- Thưa công tử…
Khởi Tất ngắt lời cậu:
- Hãy gọi ta là người anh em[1]!
Bát Tư Ba mỉm cười bẽn lẽn, khẽ gọi “người anh em”:
- Người anh em từng hứa với ông lão này rằng sẽ miễn nghĩa vụ cho con trai ông ấy. Huynh vốn là người trọng chữ tín, liệu có thể xác nhận lại một lần nữa để ông lão được yên tâm không?
Khởi Tất vỗ vai Bát Tư Ba, bật cười sảng khoái:
- Người anh em Bát Tư Ba, đệ thật khéo ăn nói. Được, ta đã hứa thì quyết không nuốt lời.
Bát Tư Ba mở cửa lồng, nhẹ nhàng nhấc tôi ra, vuốt ve, an ủi:
- Đừng sợ, ngươi được an toàn rồi, lát nữa ta sẽ đưa ngươi về chữa trị vết thương. Sau đó, nếu ngươi bằng lòng thì ở lại với chúng ta, Kháp Na chắc chắn sẽ rất cưng ngươi. Còn nếu ngươi muốn trở về với núi rừng, ta hứa sẽ không ngăn cản.
Được cậu ấy ôm trong lòng, nụ cười ấm áp và đôi mắt trong veo, thần thánh ấy khiến tôi tìm lại được cảm giác bình yên sau bao sợ hãi. Tôi gối đầu vào ngực cậu ấy, hơi ấm từ cơ thể cậu ấy truyền qua lớp áo tăng ni, bao bọc lấy tôi, tôi thấy mắt mình nhòe ướt.
Nước mắt thấm vào áo Bát Tư Ba, chính khoảnh khắc ấy, tôi đã đưa ra một quyết định làm thay đổi cuộc đời mình: tôi sẽ đi theo cậu ấy!
Cố nhiên là tôi muốn trả ơn cậu ấy, và tất nhiên tôi cũng phải toan tính cho riêng mình. Đi theo cậu ấy đồng nghĩa với việc tôi có thể nghe giảng pháp thường xuyên, thậm chí sẽ được nghe đích thân người bác của cậu ấy – đại sư Ban Trí Đạt – thuyết pháp cũng nên. Điều này có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với việc tu hành của tôi. Đâu phải yêu tinh nào cũng may mắn như vậy. Bàn tay ai đó khẽ đặt lên khóe mắt tôi, lau đi những giọt lệ. Tôi ngẩng đầu nhìn lên, bắt gặp nụ cười thuần khiết, rạng rỡ tựa ánh nắng ấm áp giữa ngày đông giá lạnh, đôi đồng tử đen láy hắt lên thứ ánh sáng lấp lánh, dịu dàng chất ngất. Tôi dụi đầu vào ngực cậu ấy, diễn vẻ ngoan ngoãn, dễ thương hết mức. Tôi biết mình rất có khả năng về khoản này, mỗi khi tôi tỏ ra đáng yêu, ai nấy đều say như điếu đổ. Bát Tư Ba cũng không phải ngoại lệ, nụ cười của cậu ấy ngày càng tươi tắn, chói sáng. Cậu ấy ôm tôi lên ngang tầm mắt, bật cười hoan hỉ:
- Chúng ta về nhà nào!
Tôi ríu rít cất tiếng đáp lại, gật đầu đồng ý. Khi ấy tôi không hề biết rằng, kể từ khoảnh khắc tôi gật đầu đi theo Bát Tư Ba, suốt bốn mươi năm sau đó, tôi không hề trở lại núi Côn Luân. Suốt bốn mươi năm, tôi đã gắn chặt đời mình với cậu ấy và gia tộc của cậu ấy…
r
- Sau đó, Bát Tư Ba đã thực hiện lời hứa, trở thành người bạn thân suốt đời của Khởi Tất. Bát Tư Ba luôn tận tâm tận lực thực hiện mọi yêu cầu của Khởi Tất.
Tôi bỏ thêm vài thanh củi vào lò, căn phòng trở nên ấm cúng hơn, chúng tôi dường như đã quên hẳn trận cuồng phong dữ dội vẫn đang quần đảo ngoài kia.
- Tôi đã đi du lịch Tây Tạng nhiều lần nên có biết đôi chút về giai đoạn lịch sử này. – Chàng trai trẻ gật gù, dáng vẻ tư lự. – Khi ấy, Tứ Xuyên vẫn chịu sự cai quản của nhà Nam Tống. Sở dĩ người Mông Cổ muốn chiếm Tây Tạng là để bảo đảm sự an toàn cho cánh bên khi quân đội của họ tấn công Nam Tống. Nhưng cục diện Tây Tạng lúc đó vô cùng rối ren. Vương triều Tufan sụp đổ từ lâu, các giáo phái đua nhau mọc lên như nấm sau mưa, cát cứ phân tranh liên miên. Tây Tạng lại có địa hình núi cao hiểm trở, dân cư thưa thớt. Dù Khoát Đoan đã dùng vũ lực để trấn áp và thu phục, dù đã hao tổn rất nhiều thời gian và binh lực, nhưng không có gì đảm bảo cả vùng Tây Tạng bao la ấy sẽ nghe theo hiệu lệnh của người Mông Cổ. Bởi vậy, kế sách tốt nhất là tìm kiếm lãnh tụ của một trong những giáo phái Phật giáo Tây Tạng, ra sức phát triển thế lực của giáo phái này để toàn bộ khu vực Tây Tạng phải quy thuận theo giáo phái ấy. Trong bối cảnh chính trị hết sức phức tạp, giáo phái Sakya đã đáp ứng được yêu cầu của thời đại, chuyển mình trở thành một giáo phái hùng mạnh ở Tây Tạng.
Tôi gật đầu tán đồng:
- Cậu nói rất đúng. Khi ấy, giáo phái lớn nhất đất Tạng là Kagyu đã bị chia nhỏ thành các hệ phái như: Drikung Kagyu, Baram Kagyu, Drukpa Kagyu, Karma Kagyu. Những hệ phái này đều chần chừ, e ngại, họ luôn tìm cách né tránh quân đội Mông Cổ, nhiều lần cự tuyệt giao thiệp. Chỉ có đại sư Ban Trí Đạt của phái Sakya ở vùng đất phía sau của Tây Tạng (thường gọi là vùng Hậu Tạng) là người nhìn xa trông rộng, ngài đã lập tức lên đường sau khi nhận được thư mời của Khoát Đoan. Chuyến đi tới Lương Châu của ngài đã ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ tiến trình lịch sử Tây Tạng nói riêng và lịch sử Trung Quốc nói chung.
Chàng trai nhìn tôi chăm chú:
- Suy nghĩ của cô rất hiện đại.
Tôi phì cười:
- Tuy tôi náu thân nơi núi cao, rừng sâu nhưng không có nghĩa tôi thờ ơ với mọi sự. Tận mắt chứng kiến những đổi thay bãi bể nương dâu hơn bảy trăm năm qua, nhất là những biến động to lớn mấy chục năm gần đây, lẽ nào tôi không chịu ảnh hưởng? Tôi vẫn thường xuyên hóa phép thành người, đi ngao du khắp nơi để trải nghiệm cuộc sống của con người. Các thiết bị điện tử như máy vi tính mà các cậu thường xuyên sử dụng, tôi cũng biết dùng. Các cậu lên mạng tìm tài liệu, tôi cũng làm như vậy. Tôi còn sưu tầm rất nhiều sách vở, tài liệu thuộc đủ các ngôn ngữ khác nhau nữa đó. Tôi không hề bị thời đại này đào thải.
Cậu ta ngẩn ngơ giây lát rồi bật cười ha hả:
- Xem ra yêu tinh cũng phải theo kịp thời đại mới được. Chả trách trò chuyện với cô, tôi có cảm giác rất thân thiện, gần gũi.
Sau một hồi chuyện trò rôm rả, chàng trai vừa chìa tay về phía lò sưởi vừa hào hứng hỏi tôi:
- Sau đó thì sao, cô đã gặp em trai Bát Tư Ba phải không?
Tôi gật đầu, mỉm cười khi thấy vẻ mặt háo hức chờ đợi của chàng trai trẻ. Xem ra, cậu ta đã hoàn toàn bị cuốn hút vào câu chuyện này, không còn tỏ vẻ đùa cợt như lúc đầu nữa.
========
[1] Nguyên tác là “an – đáp”, trong tiếng Mông Cổ, an – đáp có nghĩa là người anh em kết nghĩa.