Dịp tháng Ba, tháng Tư là thời điểm đào đỏ liễu xanh, hương thơm bát ngát.
Tôi thấy bên ngoài trời mây đẹp như tranh vẽ, không kìm được cười, nói: “Bên ngoài cảnh đẹp thế này, cứ ngồi mãi trong phòng thật là một điều đáng tiếc”, rồi lại hỏi: “Sao không thấy Cận Tịch đâu thế?”
Hoán Bích cười, nói: “Tiểu thư quên rồi sao? Cận Tịch đã ra ngoài hái rau tề thái, nói là để tối đến gói một ít hoành thánh nhân tề thái mà. Nô tỳ bây giờ đang chuẩn bị đi nhào bột đây. Tiểu thư không có việc gì làm, chi bằng ra ngoài đi dạo một chút cho khuây khỏa.”
Tôi đưa tay vuốt nhẹ mái tóc, đứng dậy nói: “Cũng tốt, bên ngoài hoa đang nở rộ, ta đi hái một ít về cắm vào bình.”
Hoán Bích nở nụ cười tươi. “Vậy thì hay quá, ngoài kia trăm hoa đua nở, khiến cho căn phòng này của chúng ta có vẻ lạnh lẽo quá chừng.”
Thế rồi tôi bèn cất bước ra ngoài, hòa mình vào cảnh xuân đẹp đẽ, lúc này tất cả trời mây non nước đều tràn đầy sinh khí, nơi nơi ngợp những bóng hoa, ở trong cung, toàn bộ hoa cỏ đều phải qua bàn tay cắt tỉa của những người thợ khéo để hợp với nghi lễ của cung đình, đẹp thì đẹp nhưng dù gì cũng đã mất đi vẻ tự nhiên.
Còn những bông hoa giữa chốn núi rừng quanh tôi lúc này đều được thoải mái vươn mình đón gió, cành lá tốt tươi, tràn đầy sức sống. Giữa trời đất bao la, thỉnh thoảng lại có một cơn gió thổi tới, mang theo mùi hương hoa cỏ thanh tân, ngọt ngào vô hạn.
Đưa mắt nhìn về phía xa, dưới núi đồng ruộng bát ngát, nơi thì trồng lúa biếc xanh, nơi lại trồng cải vàng rộm, hai màu xanh và vàng đan xen nhau, trông như một dải gấm trải dài miên man vô cùng rực rỡ.
Tôi bất giác khẽ nở nụ cười, thầm nghĩ năm nay chắc sẽ lại có một vụ mùa bội thu.
Tôi vô tư bước đi trên con đường nhỏ, lúc thì hái vài bông hoa anh đào dại nở hoa trắng muốt, lúc lại hái mấy bông nhị nguyệt lan màu tím nhạt, có lúc lại tiện tay bẻ một nhành cỏ biếc xanh, cứ thế ôm tất thảy trong lòng, bước đi chậm rãi, tâm trạng vui vẻ vô cùng.
Lúc này cảnh xuân đương đẹp, nơi nào cũng ngợp đầy sắc xuân, hoa dại tỏa hương bát ngát, khiến người ta lòng xiết mê say, chẳng muốn quay về. Giữa không trung thỉnh thoảng lại có chim chóc bay qua, khi oanh khi yến, lưu lại những tiếng hót véo von, thoắt hiện rồi chợt mất. Tôi lúc này đã hòa mình vào cảnh sắc xung quanh, gần như đắm đuối, cảm thấy ngay cả non nước vô tri cũng trở nên hữu tình, đang thiết tha mời gọi tôi dạo bước.
Tôi chậm rãi bước đi, chợt để ý thấy sắc trời phía đằng xa đã dần chuyển thành màu đỏ, thỉnh thoảng lại có vài làn khói bếp nơi chân núi bốc lên, liền biết rằng thời gian đã không còn sớm nữa, đành ôm theo bó hoa, thả bước trở về.
Khi tôi về đến thiền phòng thì Cận Tịch cũng đã quay trở lại, đang cùng Hoán Bích bận rộn bên bếp, mùi thơm ngọt ngào đặc biệt của rau tề thái không ngớt bay ra. Nghe thấy tiếng tôi mở cửa, hai người bọn họ liền ngoảnh đầu nhìn qua, Cận Tịch cười, nói: “Nương tử về muộn mất rồi, Vương gia vừa mới tới đây xong đấy!”
Tôi thoáng ngạc nhiên, đồng thời còn có chút hụt hẫng, “Sao lại tới đây đột ngột như vậy?”
Cận Tịch chậm rãi nói: “Vương gia có vẻ rất nôn nóng, quay về cũng rất vội vàng, dường như phải tìm một cái cớ nào đó mới có thể qua đây, lúc này chắc đã tới An Tê quán của Thái phi rồi.”
Tôi khẽ “ồ” một tiếng, biết là lỡ mất cơ hội gặp y, tâm trạng không khỏi có chút buồn bã, nhưng cũng không muốn để Hoán Bích và Cận Tịch nhìn ra, liền lẳng lặng đi tìm một chiếc bình, cẩn thận cắm từng bông hoa vào, lại tưới nước cẩn thận rồi mới hỏi: “Khi tới đây, Vương gia có nói gì không?”
Hoán Bích đáp: “Lúc tới, Vương gia có hỏi là tiểu thư đi đâu rồi, nô tỳ còn định đi tìm nhưng Vương gia lại nói ngọn núi này lớn như vậy, sợ là nhất thời không tìm thấy được, hơn nữa tiểu thư đã ra ngoài ngắm cảnh, nửa chừng tìm về chỉ e sẽ làm hỏng mất nhã hứng của tiểu thư. Sau đó, Vương gia lại đợi thêm một lát rồi A Tấn đến giục, thế là đành rời đi. Ngài không nói gì thêm, chỉ viết mấy chữ để lại trên bàn, tiểu thư cứ qua đó xem thì biết.”
Tôi không gặp được y, lại biết y đã chờ tôi, liền càng thêm bồi hồi, hụt hẫng. Y tới được một chuyến cũng chẳng dễ dàng gì, lại bỏ lỡ như vậy, lần sau gặp mặt thật chẳng biết phải chờ đến bao giờ. Thôi thì có một bức thư cũng tốt, còn hơn là không có gì.
Thế rồi tôi bèn cầm lấy bức thư, mở ra xem, trên tờ giấy trắng tinh chỉ có một dòng ngắn ngủi: “Trên đồng hoa nở, nàng cứ chầm chậm quay về[1].”
[1] Đây là lời trên một bức thư mà Ngô Việt Vương Tiền Lưu thời Ngũ Đại gửi cho Vương phi Đới thị của mình. Tương truyền, Tiền Lưu và Đới thị cực kỳ ân ái, mà Đới thị lại là một người rất yêu quý quê hương, nên mùa xuân mỗi năm Đới thị đều phải về thăm quê xa một lần. Hôm ấy Tiền Lưu xuất cung, thấy dưới chân núi Phượng Hoàng và bên bờ Tây Hồ trăm hoa đua nở, muôn hồng ngàn tía, bất giác nhớ tới việc đã nhiều ngày không gặp ái phi, liền quay về viết một bức thư gửi nàng. Lời trên thư tuy ngắn ngủi nhưng lại vô cùng tinh tế và chứa chan tình cảm, khiến Đới thị đọc xong liền nhỏ lệ hai hàng. Về sau, chuyện này lan truyền ra ngoài, trở thành giai thoại, còn được cải biên thành dân ca, lưu truyền rất rộng trong dân gian – ND.
Dường như có một dòng nước ngọt ngào đang từ từ chảy vào tim tôi, khiến nó trở nên ấm áp và mềm mại, rồi sau đó mọc ra những cánh hoa xuân tươi đẹp nhất.
Y biết rõ muốn tìm ra tôi giữa vùng núi non này kỳ thực không có gì khó, chỉ cần đến nơi nào nhiều hoa là sẽ tìm thấy tôi ngay. Thế nhưng, y vẫn tình nguyện ở lại đây lặng lẽ chờ đợi, chứ không muốn cắt ngang tâm trạng vui vẻ của tôi khi ngắm hoa xuân.
Y cứ thế ngồi đây trong im lặng, hy vọng tôi sẽ về sớm.
Sự tinh tế của y, tình cảm chân thành và ấm áp của y khiến tôi thiếu chút nữa không kìm nỗi hai hàng lệ nóng.
Không ngờ tình yêu mà y dành cho tôi lại bao dung và giàu sự nhẫn nại đến nhường này.
Những bông hoa giữa đồng đều đã nở, nàng có thể chậm rãi ngắm hoa, không cần nôn nóng quay về. Tôi cảm nhận dường như y đang khẽ rủ rỉ những lời như vậy bên tai tôi.
Trên đồng hoa nở, muôn hồng nghìn tía, y sẽ đứng ở đầu bên kia của biển hoa bát ngát mà chờ đợi tôi.
Trong lúc chờ đợi, hẳn y đã mang theo một chút tương tư, một chút mong chờ, và còn cả một chút cô đơn, tất thảy đều chỉ vì muốn chờ tôi rong chơi trở về.
Hoán Bích thấy tôi thất thần, vội bước tới hỏi: “Tiểu thư sao vậy?”
Tôi mỉm cười vui vẻ, khẽ nói: “Không có gì. Con bồ câu lần trước Vương gia cho người đưa tới đâu rồi?”
Hoán Bích đáp: “Đang ăn kê bên ngoài kia kìa, để nô tỳ mang nó vào đây.” Nói rồi liền xoay người đi ôm con bồ câu đó vào.
Con bồ câu trắng muốt vẫn đang kêu “cúc cu” không ngớt. Tôi đi lấy một tờ giấy, cầm bút viết: “Nước tựa nhãn ba ngang, non tựa my phong tụ. Muốn hỏi người đi tới chỗ nao, mi mắt đăm đăm đó[2].”
[2] Trích Bốc toán tử, Vương Quan, dịch thơ Nguyễn Chí Viễn. Nguyên văn Hán Việt: Thủy thị nhãn ba hoành, sơn thị my phong tụ. Dục vấn hành nhân khứ na biên, mi nhãn doanh doanh xứ – ND.
Lòng thầm xao động, tôi cảm thấy như thế này hãy còn chưa đủ, liền lật tờ giấy sang mặt bên kia, viết thêm mấy hàng chữ nhỏ. “Mày chàng tựa rặng ngon xanh, ánh mắt như làn nước biếc. Muốn hỏi người ta tới nơi nao, thì rằng luôn trong mắt chàng chưa từng đổi khác. Lần này lỡ dịp gặp nhau, ngày sau cùng chàng hội ngộ, mong ở nơi bát ngát cỏ hoa.”
Viết xong, tôi bất giác mỉm cười rồi cẩn thận cuộn tờ giấy đó lại, nhét vào trong chiếc ống trúc nhỏ buộc bên chân trái con chim bồ câu, sau đó cười, nói với Hoán Bích: “Con bồ câu này chắc biết đường bay về chứ nhỉ?”
Hoán Bích cười đáp: “A Tấn đã phải tốn rất nhiều tâm sức mới huấn luyện được nó đấy, chắc sẽ không ngốc quá đâu!”
Tôi ôm con bồ câu đi ra ngoài cửa, thấy những rặng núi non ẩn hiện dưới ánh tà dương, sắc trời tối dần, bèn thả cho con bồ câu bay đi. Trong khoảnh khắc ấy, trái tim tôi dường như cũng rời khỏi cơ thể mà bay theo nó.
Ngày hôm sau, trời trong nắng ấm. Huyền Thanh thình lình xuất hiện trước mặt tôi, nơi tay áo còn vương mùi thơm của hoa xuân.
Tôi vừa ngạc nhiên vừa vui mừng. “Sao huynh lại đột nhiên tới đây thế?”
Y nở nụ cười rạng rỡ, nắm lấy bàn tay tôi. “Sau khi nhận được thư của nàng, ta suy nghĩ suốt một đêm mà vẫn chẳng nghĩ ra nên trả lời thế nào mới phải, đành tự mình tới đây.” Trên khuôn mặt y tràn ngập vẻ khoan khoái. “Chỉ tiếc là chúng ta không thể hội ngộ ở một nơi bát ngát cỏ hoa.”
Có gì quan trọng đâu, y tới đây, vốn đã mang tới cho tôi một miền cỏ hoa bát ngát rồi.
Kỳ thực, giữa sân có một gốc đào già đang nở hoa rạng rỡ, một cơn gió nhẹ thổi tới, những cánh đào hồng lất phất tung bay, đất trời ngợp giữa màu hồng của hoa đào và màu vàng ươm của nắng.
Bên dưới ô cửa sổ trong thiền phòng, y trịnh trọng rút từ trong tay áo ra một vật.
Đó là một tấm thiệp hợp hôn màu đỏ, chính giữa có hình một cặp uyên ương ân ái, phần rìa thì vẽ hình phượng hoàng cùng bay, chỉ vợ chồng hòa hợp; nền của tấm thiệp còn có hoa văn sen mọc cùng gốc, ngụ ý nhiều con nhiều phúc, ân ái triền miên.
Nhưng con chữ như khắc trên tờ giấy, hằn sang cả mặt sau. Mỗi nét chữ đều có thể nhìn thấy rõ ràng, đồng thời lại như lờ mờ khó thấy. Lúc này, người tôi trở nên mềm nhũn, tâm trạng xao xuyến không thôi, tựa như lúc được cha dẫn đi xem cảnh thủy triều hồi nhỏ, nước triều ở sông Tiền Đường như muôn vàn con ngựa cùng lao đi, mang tới cho tôi một sự chấn động khó tả, mắt tôi rơm rớm lệ, trong lòng chợt trào dâng nỗi bi thương.
Tôi nắm chặt lấy bàn tay y, nức nở nói: “Muội là người bị hoàng huynh của huynh ruồng bỏ, tiền đồ chẳng biết thế nào, huynh việc gì phải đối tốt với muội như vậy chứ?”
Huyền Thanh ôm tôi vào lòng, ống tay áo của chiếc áo đơn màu đỏ cọ xát nhè nhẹ với chiếc áo ni cô cùng mái tóc bị buông xõa của tôi. Nước mắt tôi rơi xuống áo y, loáng cái đã bị hút sạch, chỉ để lại một mảng màu hơi sẫm, chừng như đã hoàn toàn biến mất khỏi thế gian.
“Cho dù tiền đồ chẳng biết thế nào thì đây cũng là tâm ý chân thành nhất của ta.” Giọng của y cũng trở nên nghẹn ngào: “Hoàn Nhi, trên thế gian này, ta chỉ cần mình nàng thôi.”
Tôi im lặng, chợt nở nụ cười rạng rỡ, hai tay cùng quàng qua cổ y, chăm chú nhìn vào bóng dáng tôi trong đôi mắt y. Huyền Thanh cũng không nói năng gì, ánh mắt dừng lại trên khuôn mặt tôi, đôi mắt đen láy như đầm nước trong veo sâu không thấy đáy, bên trong duy chỉ có bóng dáng của tôi cùng những tia tình ý mặn nồng. Bên ngoài thiền phòng, hoa đào đang nở rộ, màu hồng tràn ngập giữa đất trời cùng từng làn hương thơm thoang thoảng, sắc xuân ngập tràn. Tôi tựa má mình vào bờ vai y, đôi tay y dùng sức càng lúc càng mạnh, ôm chặt lấy tôi, chặt vô cùng, như thể đời này kiếp này chúng tôi chằng bao giờ còn cơ hội bên nhau nữa. Lồng ngực tôi có cảm giác nhói đau vì bị ôm quá chặt nhưng cùng với sự đau đớn ấy, trong lòng tôi còn có một nỗi mừng vui khó miêu tả bằng lời.
Sự mừng vui đó ngợp khắp đất trời, trước mắt chỉ toàn hình ảnh đôi uyên ương ban nãy, chúng tựa cổ cọ đầu, tột cùng ân ái… Rồi còn cặp hoa sen liền gốc, cả hai bông hoa đều đang nở rộ, cánh hoa cứ chậm rãi rơi, cuối cùng để lộ ra phần nhụy trắng ngần, trắng như miếng ngọc mỡ dê… Chiếc móc đồng treo màn khẽ lay động, bức màn màu trắng buông xuống nhẹ nhàng… Phượng hoàng cùng bay…
Ngoài sân, những cánh hoa đào màu hồng phấn rơi lả tả giữa gió xuân, tựa như cơn mưa hoa lãng mạn… Trong màn, một đôi chân thon dài đang duỗi thẳng, cảnh sắc ướt át và ngợp đầy sắc xuân… Những tiếng thở nặng nề của nam nhân vang lên không ngớt… Tôi ngẩng đầu nhìn bứ tượng Quan Âm tạc bằng bạch ngọc đặt trên bàn rồi lại cúi đầu im lặng, bà ấy cũng không nói năng gì… Tràng hạt làm bằng gỗ trầm hương đặt đầu giường trông như một con rắn đang cuộn mình lặng lẽ, khi nhắm mắt lại, tôi tiện tay gạt văng nó xuống đất, làm phát ra những tiếng lộc cộc nhẹ nhàng.
Tôi rón rén trở dậy mặc quần áo, sau khi xong xuôi, ngó sang thấy Huyền Thanh hai mắt vẫn nhắm, hít thở đều đều, dường như còn đang ngủ say. Tôi tới ngồi trước chiếc bàn trang điểm, mở hộp đồ trang sức đã phủ đầy bụi lâu ngày ra. Những món đồ châu ngọc kia đã bị tôi bỏ quên không ngó ngàng gì tới từ khá lâu rồi, lúc này nhìn thấy, không kìm được cảm thấy rực rỡ khôn tả, hoàn toàn không còn cảm giác gay mắt nữa. Tất cả những thứ trong hộp đều là đồ quý giá của tôi khi vào cung, không thiếu thứ gì. Mặc dù mấy năm trong cung từng được Huyền Lăng ban cho vô số món đồ quý báu nhưng tất thảy tôi đều để lại, ngay cả cây trâm vàng hình hoa hồng mà tôi vốn luôn yêu thích cũng chẳng mang theo.
Những thứ gì liên quan đến Huyền Lăng, có thể bỏ lại được tôi đều đã bỏ lại.
Ngồi trước gương chậm rãi chải chuốt, trang điểm, đã lâu lắm tôi không dụng tâm như vậy rồi. Tôi chải cho mình kiểu tóc Bán phiên đơn giản, mái tóc mây đen nhánh được cuộn hết ra phía sau, lại chia thành từng lọn nhỏ, uốn thành những vòng tròn hai bên, nơi chính giữa đỉnh đầu tụ thành một khối. Kế đó, tôi chọn lấy một cây trâm vàng nạm phỉ thúy cẩn thận cài lên đầu, sợi tua bên dưới cây trâm đung đưa không ngớt, cọ nhẹ vào búi tóc đen nhánh của tôi. Trên bệ cửa sổ có đặt một chậu hoa lan tím, tỏa hương dìu dịu, lòng tôi thầm máy động, liền đưa tay hái lấy mấy bông cài lên búi tóc.
Tôi lại mở tiếp hộp son phấn, lấy các thứ phấn son bột nước ra, trang điểm theo lối Đào hoa trang, lại nhuộm thắm cả bờ môi. Dưới mái tóc mây, hai gò má tôi mang màu san hô hây đỏ, tựa như những án mây màu buổi bình minh. Kế đến tôi lại cẩn thận kẻ mày, những đường bút như vẽ ra hai rặng núi xa, phía dưới đó là đôi mắt trong veo rực sáng, chỉ thoáng đong đưa, vô vàn tình ý dào dạt truyền ra. Tôi không khỏi thầm cảm khái, vẻ suy sụp trước kia tới lúc này rốt cuộc đã hoàn toàn tan biến, người trong gương như có một cuộc sống mới, đã có thể để nụ cười thắm đượm bờ môi.
Lúc này tôi đang mặc trên người chiếc áo ngăn thêu hoa màu tím nhạt, bên trên là những bông hoa màu vàng cùng cành lá rậm rạp xanh biếc, lại khoác bên ngoài chiếc áo cộc tay màu trắng thêu hình lá đào, phía dưới là chiếc váy lụa mềm xếp nếp màu xanh lơ, tung bay nhè nhẹ giữa làn gió xuân ấm áp.
Những sắc màu ấy đều mang nét vui tươi, làm tâm trạng tôi thư thái hơn nhiều.
Tôi đi tới trước bàn, nhúng đẫm mực vào đầu cây bút lông, cẩn thận viết tiếp vào sau mấy chữ của Huyền Thanh trên tấm thiệp. “Nguyện cầm sắc chan hòa, trọn kiếp đẹp tươi.” Dường như đang ở trong giấc mộng, tôi và Huyền Thanh rốt cuộc đã có ngày này, kiếp sống này coi như không uổng.
Một giọng nói dịu dàng vang lên sau lưng tôi: “Hoàn Nhi?”
Tôi mỉm cười nhìn y chăm chú, nơi đáy lòng vô số tình cảm dạt dào. “Khi xưa muội rời cung để tóc tu hành, lần trước tới Thượng Kinh du ngoạn trang điểm theo lối nữ tử bình thường chẳng qua là để cho tiện, không có nguyên nhân gì đặc biệt. Còn hôm nay, muội hoàn toàn là vì huynh nên mới trang điểm và trở lại cõi trần.” Tôi cúi đầu, ngượng ngùng khẽ nói: “Kỳ thực, vì huynh nên trái tim muội luôn ở nơi trần thế, chưa bao giờ thoát đi được.”
Cặp mắt như lóe sáng, y nhẹ nhàng bước tới, ôm tôi vào lòng.
Tôi tựa người vào cánh tay y, chìm đắm trong niềm hạnh phúc và mừng vui lớn lao vô bờ. Bỗng nhiên tôi nhớ tới một việc, bèn hỏi: “Trên tay huynh có hình xăm, đúng vậy không?”
Khóe môi y hơi nhếch lên, nở một nụ cười kỳ lạ, ghé tai tôi, khẽ nói: “Vừa rồi không phải nàng đã nhìn thấy hết rồi sao?”
Tôi bất giác đỏ bừng hai má, lặng lẽ vén tay áo y lên. Chỉ thấy trên cánh tay phải của y có hình xăm một sợi xích sắt, xung quanh bò đầy dây mây màu xanh, màu sắc vô cùng bắt mắt. Ngoài ra phía dưới còn có hình xăm một thanh trường kiếm nằm ngang, tay nghề của người xăm cao minh vô cùng, chỉ nhìn thôi đã khiến người ta cảm thấy như có vô số tia kiếm khí sắc bén bay ra.
Tôi đưa tay, nhẹ nhàng vuốt ve những hình xăm trên cánh tay y, khẽ hỏi: “Khi xăm có đau lắm không?”
“Đau.” Y cười, đáp: “Có điều chỉ cần cố chịu một chút là xong thôi.”
Tôi cúi đầu, hôn lên hình xăm của y, cất giọng mơ màng: “Tại sao huynh phải xăm lên người những hình xăm như vậy, có ý nghĩa đặc biệt gì sao?”
“Trong cơ thể ta có dòng máu của người Bãi Di, các nam tử Bãi Di sau khi trưởng thành đều phải xăm những hình xăm như vậy cả.”
“Vậy… Thái hậu không phản đối sao?” Dù gì Thái hậu cũng là dưỡng mẫu của Huyền Thanh cơ mà.
Y khẽ cười hờ hững, trong nụ cười thấp thoáng nét ưu thương nhàn nhạt, giọng nói đầy vẻ dửng dưng: “Ta chẳng qua chỉ là một vương gia nhàn tản, do đó tự do tự tại vô cùng.”
Y buông tay áo xuống, ánh mắt dừng lại trên tấm thiệp màu đỏ kia. “Nàng mới viết gì vậy?” Huyền Thanh một tay ôm eo tôi, tay kia cầm tấm thiệp lên xem. Từng làn hơi thở ấm áp của y không ngừng phả vào tai tôi, cổ tôi, khiến tôi cảm thấy vô cùng ngứa ngáy. Một thoáng sau, giọng nói kiên định của y chậm rãi vang lên, vương vất mãi bên tai tôi: “Hoàn Nhi, ta nhất định sẽ để nàng được như ý nguyện.”
Tôi đưa mắt nhìn những bông hoa đào đang nở rộ bên ngoài cửa sổ, thầm cảm thấy buồn bã. “Muội biết đó chẳng qua chỉ là một sự mơ mộng hão huyền, căn bản không thể trở thành hiện thực.”
Huyền Thanh xoay người tôi lại, nắm chặt lấy bàn tay tôi, mười ngón tay của chúng tôi như hòa làm một, tỏ rõ tình ý sâu sắc triền miên. “Nàng hãy tin ta, đợi sau khi hoàng huynh dần quên nàng, ta sẽ nhờ Tĩnh Ngạn sư thái báo lên rằng nàng đã mắc bệnh qua đời rồi sau đó nàng thay tên đổi họ, vậy là chúng ta có thể mãi mãi bên nhau.” Ánh mắt y dịu dàng rất mực, tựa như làn nước mùa xuân, điều mà kiếp này vốn ngỡ là không thể, lúc này đã trở thành có thể rồi. Tôi như đang ở trong giấc mộng, không kìm được mà khẽ “ưm” một tiếng. Nhớ xưa kia, ngăn cách giữa tôi và y là biết bao người, biết bao việc, biết bao trở ngại khó khăn, vậy mà nay những thứ ấy đều đã tan biến, khiến tôi có cảm giác đó là việc từ kiếp trước rồi, chẳng hề chân thực. Lúc này, tôi như bước xuống từ chín tầng mây, chuẩn bị bắt đầu cuộc sống hoàn toàn mới.
Giọng y lại vang lên nghe như lời mộng mị: “Hoàn Nhi, hôm sinh nhật Ôn Nghi đó, nàng còn nhớ không? Nàng ngâm đôi chân trần trong dòng suối, trông như một chú cáo trắng vậy…” Tôi lại khẽ “ưm” một tiếng, y không nói tiếp, sao tôi có thể quên được cuộc gặp gỡ lần đầu ngày hôm đó chứ.
Tôi khẽ cười, nói: “Hôm đó huynh cực kỳ vô lễ, chẳng khác gì một tay lưu manh háo sắc.”
Y mỉm cười. “Khi để chân trần nghịch nước, trông nàng xinh đẹp, đáng yêu biết mấy, nhưng khi nghiêm mặt giận dữ lại lập tức có bộ dạng cự tuyệt người ta từ ngoài ngàn dặm. Khi đó ta thầm nghĩ, sao lại có một nữ tử nhạt nhẽo như vậy nhỉ?” Y lẳng lặng nhìn tôi. “Nhưng sau đó khi bước vào điện, thấy nàng thổi cây sáo ngọc, lại múa điệu Kinh Hồng vũ, ta mới hay trên đời thực sự có người có thể uyển chuyển, thướt tha tựa như con chim hồng nhạn vậy.”
Tôi bật cười thành tiếng, chỉ tay vào y mà trêu chọc: “Làm gì có ai đi khen người ta như vậy chứ, lúc thì cáo trắng lúc lại chim hồng nhạn, chẳng biết xấu hổ gì cả.”
Trên thế gian này, y là người hiểu tôi nhất, mà người hiểu y nhất cũng chính là tôi. Chỉ là hiện giờ tôi không muốn suy nghĩ tới điều gì khác, toàn bộ tâm tư đều đắm chìm trong niềm hạnh phúc ngọt ngào.
Tôi khẽ ãy người thoát khỏi vòng tay của y, nhổ một sợi tóc từ đầu y xuống. Y hơi đau, ngạc nhiên hỏi: “Làm gì vậy?”
Tôi lại đưa tay tự nhổ một sợi tóc của mình, cẩn thận buộc hai sợi tóc đó vào nhau dưới ánh mặt trời dìu dịu chiếu vào qua khung của sổ. Huyền Thanh lập tức hiểu ra dụng ý của tôi, hai mắt rực sáng như hai ngọn đuốc, nơi khóe mắt thấp thoáng có giọt lệ rỉ ra. “Vợ chồng chúng ta sẽ ở bên nhau mãi mãi.” Tôi mỉm cười không nói, khuôn mặt bất giác nóng dần lên.
Huyền Thanh cúi đầu hôn tôi không ngớt, kèm theo đó là những làn hơi thở dồn dập và nóng bỏng.