Khương Trầm Ngư cảm thấy mình đã trải qua một giấc mộng rất dài, rất dài.
Mọi thứ trong mộng cảnh trông đều rất quen thuộc, rõ ràng là quá khứ, mà phút giây này, đều lần lượt tái hiện…
Đồ Bích năm thứ hai, yến tiệc mừng thọ năm mười tuổi của phụ thân, rất nhiều tân khách tới phủ, nàng và các nữ quyến khác đang ngồi trong nội thất nói chuyện phiếm, tẩu tẩu bỗng reo lên: “A, Kỳ Úc hầu tới rồi!”.
Khi đó có mặt cả thảy bảy, tám vị nữ quyến, vừa nghe nói vậy tất cả đều lập tức bâu quanh cửa sổ, vén rèm nhìn ra ngoài. Chỉ có nàng vẫn ngồi nguyên tại chỗ.
Tẩu tẩu trêu: “Xem các a đầu nhí nhố này, nhìn lại Trầm Ngư nhà chúng ta đi, chỉ có muội ấy là trấn tĩnh.”
Nàng cười nhạt, trong lòng không cho là vậy. Lúc ấy, hai chữ Cơ Anh đối với nàng mà nói chẳng qua là một cái tên trong những lời đồn thổi, cho dù người ngoài khen ngợi nức nở thế nào, cũng chẳng qua là một đám mây trắng bên ngoài hồng trần xa xôi, bởi vì không gặp gỡ nên sẽ không khắc cốt ghi tâm.
Sau đó, tiếng chiêng trống nổi lên, yến hội bên ngoài chính thức bắt đầu, đám a hoàn đi vào đưa nữ quyến sang sảnh bên dùng bữa, đang lúc ăn rất vui vẻ, bên ngoài vang lên tiếng huyên náo.
Sai một a đầu ra thám thính, thị vệ trở về bẩm báo nghĩa tử của đại tướng quân Tiết Hoài – Tiết Hoằng Phi đột nhiên mượn cớ chúc thọ, đề nghị tỉ võ với thị vệ trong phủ.
Đám nữ quyến vừa nghe thấy thế đã không ngồi yên được nữa. Tiết Hoài được gọi là đệ nhất thần tướng của bốn nước, bách chiến bách thắng, võ công cái thế, uy danh hiển hách, là nhân vật tựa thiên thần, chỉ là tuổi tác đã hơi cao, nhưng nghĩa tử đó lại được chân truyền của ông cả về văn nghệ võ công, hơn nữa thiếu niên hổ tướng, tướng mạo đường hoàng. Vì thế, các cô nương vừa nghe nói hắn muốn tỉ võ đều muốn đi xem.
Tẩu tẩu Lý thị thấy can ngăn không được, lại thêm bản thân cũng hiếu kỳ, đành đồng ý dẫn đám cô nương đi vòng đến tiểu lâu bên cạnh, nhìn từ cửa sổ lầu hai xuống, vừa hay có thể nhìn rõ tình hình.
Khương Trầm Ngư tuy không hứng thú là mấy, nhưng sự việc liên quan đến thể diện của phụ thân, vì vậy cũng đứng bên cửa sổ quan sát, thấy một người đứng giữa khoảng đất trống bên dưới, thân hình cao lớn, toàn thân áo đen không ngừng bay bay trong gió, lộ rõ vẻ anh tuấn hào sảng, có lẽ đây chính là Tiết Hoằng Phi.
Phụ thân nàng đang ngồi trên ghế chủ tọa, ôn hòa nói: “Từ lâu đã nghe tiếng Tiết tam công tử võ nghệ hơn người, có khí thế của Tiết tướng quân, trong phủ của ta đều là những kẻ thất phu lỗ mãng, sao có thể là đối thủ của tam công tử, cuộc tỉ võ này, ha ha, không cần đấu cũng được”.
Tiết Hoằng Phi cười nhạt một tiếng: “Khương thừa tướng hà tất phải khiêm tốn, ai chẳng biết thừa tướng tuy không biết võ nghệ, nhưng lại tinh thông thuật huấn luyện võ thuật, đào tạo một loạt cao thủ tuyệt thế. Thừa tướng từ chối như thế, há chẳng phải có ý che giấu thực lực?”.
Phụ thân sắc mặt hơi nhợt nhạt, không khí có chút gượng gạo, bách quan có mặt đều đặt chén rượu xuống, im lặng xem màn kịch hay. Từ khi phò tá Chiêu Doãn đăng cơ, lại thêm bài trừ địch thủ lớn nhất là Vương gia, Tiết gia nắm đại quyền trong tay, tân vương cũng có vài phần nể sợ họ. Nay lại khiêu khích Khương Trọng như thế, rõ ràng là không coi Khương gia ra gì.
Tiết Túc bên cạnh cất giọng lười biếng nói: “Tam đệ như thế là không được, hữu tướng mừng thọ là ngày vui lớn, đệ đòi tỉ võ gì chứ, đánh đánh giết giết không ra gì, không mau tạ tội với hữu tướng đi”.
Tiết Hoằng Phi hừm một tiếng, ôm quyền nói: “Ta là kẻ thô lỗ, không biết ăn nói. Nếu có chỗ nào đắc tội, mong thừa tướng đại nhân lượng thứ”.
Sắc mặt phụ thân giãn ra, đang định nói vài lời khách sáo cho qua chuyện này, lại nghe hắn nói tiếp: “Chỉ có điều, Bích quốc chúng ta xưa nay tôn văn thượng võ, ta ngưỡng mộ uy danh tướng phủ từ lâu, lòng đầy mong đợi cùng cao thủ học tập một chút, cũng coi như trợ hứng cho mọi ngưới, hiến chút trò vui, để thọ yến thêm phần náo nhiệt, ai ngờ… ha ha…”.
Tràng cười sau cùng vừa phóng túng vừa ngạo mạn, ý vị châm chọc rõ ràng, dội thẳng vào tâm trí của mọi người có mặt.
Tẩu tẩu giận dữ nói: “Cái tên Tiết Hoằng Phi này thật là ngông cuồng, tưởng mình thực sự là tam công tử Tiết gia chắc? Cho dù hôm nay cha hắn đích thân đến đây, cũng không dám nói năng như thế với lão gia, huống hồ hắn chỉ là con nuôi, quan hàm cũng không có…”.
Khương Trầm Ngư trong lòng thầm than: Chính vì không có quan hàm nên mới dám không kiêng nể như thế, vì đoán chắc phụ thân không quản được hắn, cũng chính vì hắn chỉ là con nuôi, nếu chẳng may làm ầm ĩ đến mức gây ra hậu quả xấu thì chỉ cần hy sinh nghĩa tử, nói một câu quản thúc không nghiêm. Tiết Hoài tuy không đến nhưng không có sự cho phép của lão, Tiết Hoằng Phi cũng chẳng dám ngang ngược như thế trong thọ yến của phụ thân. Xem ra, Tiết gia quả thực muốn trấn áp Khương gia rồi…
Nhìn thấy tình thế căng thẳng, người người đều nghiêm nghị, nhưng một tiếng cười khẽ bỗng vang lên rất nhẹ, rõ ràng âm lượng không cao, nhưng truyền vào tai, lại vô cùng rõ ràng, dịu dàng, giống như đang cười bên tai vậy.
Nàng vô thức đi tìm thanh âm đó, và như thế… Nàng nhìn thấy Cơ Anh.
Khương Trầm Ngư nhớ lại, đó là cảnh tượng lần đầu tiên nàng nhìn thấy Cơ Anh.
Cơ Anh ngồi ở vị trí thứ nhất bên tay phải phụ thân, đội một chiếc mũ ngọc cao cao, mặc áo bào trắng thêu kim tuyến, trong buổi yến tiệc đông nghịt những người đó nhìn vốn không nổi bật, nhưng khi ánh mắt nàng dừng trên người chàng, lại thấy như ánh sao trên trời và ánh đèn tứ phía đều phủ xuống người chàng, chiếc áo bào trắng của chàng tỏa ra ánh hào quang lóng lánh tựa ngọc, khiến toàn thân chàng như mộng như ảo.
Không sai, đó chính là lần đầu tiên nàng nhìn thấy Cơ Anh.
Cơ Anh tắm trong luồng sáng rực rỡ mà nhu hòa đó, khẽ nhướn đôi mày anh tú mà không mất đi vẻ ôn hòa, ánh mắt hiện nét cười: “Thật khéo, Kỳ Úc cũng ngưỡng mộ võ nghệ của Tiết tam công tử, đã lâu”.
Đám nữ quyến xôn xao: “Hầu gia đúng là người tốt, giúp hữu tướng giải vây rồi!”.
Quả nhiên, Tiết Hoằng Phi nghe xong, quay sang chàng nói: “Sao cơ? Lẽ nào hầu gia lại có hứng thú giao đấu với tại hạ?”.
Cơ Anh dùng ngón tay thon dài như ngọc, nhẹ nhàng vuốt sợi tua rủ trên mũ ngọc, dưới hàng mi dày đen ngợp, nở một nụ cười ba phần dịu dàng ba phần nhàn nhạt bốn phần tự nhiên, hội tụ thành mười phần ưu nhã mà người thường không thể bắt chước được: “Cũng không hẳn là giao đấu, mọi người đều biết võ công của ta bình thường, sao dám múa rìu qua mắt thợ, gần đây ta nghiên cứu tiễn thuật, có chút thu hoạch, muốn thỉnh giáo Tiết tam công tử một phen”.
Hành động này thực khiến mọi người bất ngờ.
Tuy Cơ Anh nổi tiếng là văn võ song toàn, lục nghệ tinh thông, nhưng nếu nói là võ công tinh thâm thì cũng chưa hẳn, huống hồ sở trường của Tiết Hoằng Phi là tiễn thuật, giữa thiên binh vạn mã bắn hạ đầu địch dễ như lấy đồ trong túi.
Cơ Anh lại muốn thi bắn tên với hắn, chẳng phải là tự tìm đường chết sao?
Đám nữ quyến không khỏi lo lắng, mồm năm miệng mười nói: “Ôi, hầu gia thực sự muốn thi bắn tên với Tiết Hoằng Phi sao? Ngộ nhỡ thua thì làm thế nào?”.
“Ta cũng nghe nói hắn có thể bắn xuyên đôi nhạn trên trời đấy!”
“Hả? Làm thế nào bây giờ. Người ta không muốn hầu gia thua đâu… không nhẫn tâm xem tiếp nữa, híc híc…”.
Khương Trầm Ngư ngồi bên cạnh nghe họ nói, trong lòng thầm nghĩ, đây lại là một cách hay. Bởi vì, đao kiếm không có mắt, tỉ võ tuy nói là học hỏi lẫn nhau, có chừng có mực, nhưng lúc giao đấu sinh tử, khó tránh bị thương. Nhưng thi bắn tên thì khác, không cần đổ máu, cho dù kết quả thế nào, đôi bên tham dự đều được an toàn. Chỉ có điều, xưa nay trong lòng mọi người, Kỳ Úc hầu uy danh cao vời, nếu như không nắm chắc phần thắng thì sẽ không dây vào mớ phiền phức này, khiến bản thân bại dưới tay kẻ khác. Chàng dám đề nghị như thế, hẳn đã đoán chắc mình sẽ thắng…
Nàng chăm chú nhìn công tử phong độ ngời ngời tao nhã nhất mực, mặt như ngọc tạc ngồi giữa bách quan đó, có chút hiếu kỳ, có chút thăm dò, sau đó, âm thầm mong đợi.
Tiết Hoằng Phi nghe Cơ Anh nói xong, cười ha hả: “Được lắm, không biết hầu gia muốn lĩnh giáo thế nào?”.
Cơ Anh toan mở miệng, lại có một giọng nói khác đột ngột vang lên, giọng nói lanh lảnh: “Đợi đã!”.
Khương Trầm Ngư quay đầu sang nhìn, lại kinh ngạc lần nữa.
Bên phải phụ thân là Cơ Anh, còn bên trái là Tiết Túc, giọng nói đó từ phía bàn tiệc của Tiết Túc truyền tới, có điều người nói không phải là Tiết Túc, mà là một đứa trẻ ngồi bên cạnh y.
Nếu như nói, Cơ Anh ngồi đó như một đóa hoa quỳnh, chúm chím không nở, đợi ánh mắt của mọi người hướng tới mới phô bày vẻ phung hoa tuyệt thế của chàng; còn đứa trẻ kia lại hoàn toàn ngược lại, hắn ngồi ở đó như một đạo lôi điện, kinh tâm động phách, sắc sảo lộ rõ, phô bày hết tài năng, trí tuệ khuynh quốc.
Người đó không phải ai khác mà chính là tiểu thần đồng thông minh tuyệt đỉnh của Tiết gia – Tiết Thái.
Tiết Thái ngẩng đầu cười cười, gương mặt toát lên một vẻ thông tuệ vượt quá tuổi tác, nhưng vẫn có ba phần ngây thơ trong sáng: “Hai vị đại nhân, thật tình cờ, Tiết Thái cũng đương rất có hứng thú với tiễn thuật”.
Tiết Hoằng Phi cười ha hả, nói: “Ta biết hễ nói đến bắn tên, tên tiểu quỷ này chắc chắn không ngồi yên được mà. Nói đi lần này cháu có chủ ý xấu xa gì hả?”.
Đám nữ quyến bàn tán: “Đó là tiểu thần đồng của phủ tướng quân sao? A, nó đáng yêu quá!”.
“Nghe nói tháng trước nó cùng hoàng thượng đi săn, bắn chết một con hổ lớn trước mặt hoàng thượng, có thật không?”
“Nó mới có mấy tuổi, người lại nhỏ thế, sao mà làm được?”.
“Lần này có kịch hay xem rồi, đợi nghe xem nó nói gì”.
Tiết Thái đứng dậy, chắp tay nói với Cơ Anh: “Tiểu Thái vô lễ, cả gan xin được làm thi lệnh quan cho cuộc tỉ thí của hầu gia và tam thúc thúc”.
“Ồ?” Ánh mắt Cơ Anh sáng lên, “Thi lệnh pháp thế nào?”
“Phàm nói đến thi bắn tên, xưa nay đều chỉ là bắn vào bia cỏ, hoặc là săn thú, rất nhàm chán. Hôm nay là thọ yến của hữu tướng đại nhân, đương nhiên phải khác bình thường, càng đặc sắc càng hay. Cho nên, Tiểu Thái muốn ra ba đề, sau đó hai người bắn tên theo đề của Tiểu Thái, ai bắn đúng đề nhất thì người đó thắng, thế nào?”.
Tiết Hoằng Phi cười nói: “Xem này xem này, cháu thật lắm trò. Ta đương nhiên không có ý kiến rồi, chỉ sợ người khác nói cháu là cháu ta, thiên vị ta”.
Tiết Thái “hừm” một tiếng, ngạo nghễ nói: “Tiết Thái ta là nhân vật thế nào, sao lại thiên vị trước mặt đông đảo mọi người? Hầu gia, lần này tiểu bối cùng phụ thân đến để chúc thọ hữu tướng, hoàn toàn không biết tam thúc muốn tỉ thí võ nghệ với cao thủ của hữu tướng phủ, càng không biết hầu gia chủ động tham chiến, yêu cầu thi bắn tên, vì thế, đ`tiểu bối ra cũng chưa từng tiết lộ cho tam thúc, lát nữa phân xử đương nhiên sẽ công bằng, ngài có tin không?”.
Hắn rõ ràng mới chỉ năm tuổi, nhưng lại nói ra được những lời lẽ khẳng khái như thế, khiến tất cả mọi người có mặt đều khâm phục, có những kẻ hiếu sự còn vỗ tay tán thưởng.
Khương Trầm Ngư che miệng cười, vị thần đồng này quả nhiên là người nhỏ mà gan lớn, chậc chậc, chững chạc trước tuổi trí tuệ phi phàm, lại có gia thế hiển hách như thế, tương lai không biết còn ghê gớm đến mức nào.
Nàng cười, nhưng trong tích tắc lại bồi hồi nhớ lại – Đúng rồi, đây đều là chuyện xảy ra hai năm trước, trên thực tế, chuyện hai năm sau nàng đều đã biết, vị tiểu đồng tử kinh thái tuyệt diễm, khiến cho tất cả người lớn đều trở nên mờ nhạt này đã bị bẻ gãy đôi cánh, mài mòn sự sắc sảo, từ phú quý tột đỉnh biến xuống hèn mọn vô cùng, không còn phong thái năm nào…
Nàng bỗng cảm thấy buồn rầu, khi nhìn lại tất cả sự tình vừa xảy ra, chỉ thấy ánh đèn chao đảo, tiếng gió vù vù, bọn họ đều cách nàng rất xa rất xa…
Trong hội trường ánh sáng và bóng tối đan xen, mấy tên gia bộc khiêng bia bắn đặt trên khoảng đất trống cách chỗ bắn hơn mười trượng, sau đó lại chăng một sợi dây thừng từ điểm đứng bắn đến bia, trên dây thừng treo năm ngọn đèn lồng, chúng đung đưa trước gió.
Tiết Thái giơ ngón trỏ lên: “Đề thứ nhất, hai vị đại nhân cùng bắn tên, không những phải bắn trúng hồng tâm, mà còn phải bắn rách toàn bộ năm chiếc đèn lồng. Thế nào?”.
Nữ quyến thì thào: “Đề này khó quá, có nghĩa là mũi tênxuyên qua tất cả đèn lồng, cuối cùng bắn vào hồng tâm sao?”.
“Đúng thế đúng thế. Mấy cái đèn này cứ lắc qua lắc lại, cho dù bắn trúng đèn lồng, sợ là mũi tên sẽ chệch tâm bia”.
Bách quan phía dưới chụm đầu thì thào to nhỏ, giữa những tiếng rầm rì, Tiết Hoằng Phi cười sang sảng, nói: “Lấy cung của ta ra đây!”.
Hai tên binh sĩ lập tức khiêng một cây cung cao hơn nửa người lên, thân cung làm bằng sừng trâu thượng đẳng, sơn đen bóng, chạm trổ một con ưng bạc, dưới ánh lửa phản chiếu, trông cực kỳ chói mắt, chưa thấy tài nghệ, chỉ thấy cây cung đã khiến người ta sợ hãi.
Tiết Hoằng Phi giơ cánh tay ra, đón lấy đại cung, binh sĩ mang lên một mũi tên Tứ Vũ Hoa Mộc (gỗ hoa cắm bốn lông vũ), hắn kéo dây cung bằng ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa đè lên ngón cái, gia tăng lực đạo, cung căng như trăng tròn, không đợi mọi người khen hay, chỉ nghe vút một tiếng, mũi tên bắn vọt đi như sao băng, lao về phía năm ngọn đèn lồng.
Phập phập phập phập phập, năm tiếng gần như đồng thanh: Tiếng thứ nhất chưa dứt, tiếng thứ năm đã vang; tiếng thứ năm chưa dứt, “phập” một tiếng, dư âm chấn động bên tai, chỉ thấy mũi tên đó đã cắm chặt trên hồng tâm.
Lại nhìn những chiếc đèn lồng trên dây thừng, chúng vẫn đung đưa như không có gì khác, nhưng lấy xuống xem, trên mỗi chiếc đèn đều có một lỗ thủng nhỏ, đường viền lỗ thủng cực kỳ gọn ghẽ, không chút rách nát.
Tiếng vỗ tay vang lên như sấm dậy.
Đám nữ quyến kinh ngạc than: “Trời ạ, đúng là quá nhanh, cảm giác cứ như mơ ấy, mới chớp mắt một cái đã bắn xong rồi!”.
Tên Tiết Hoằng Phi này quả nhiên tài giỏi, tài bắn tên thần kỳ như thế, nghe nói năm đó đói lả xỉu trên phố, làm kinh động ngựa của đại tướng quân, đại tướng quân sai người kéo hắn đi, hắn ôm chặt chân ngựa, những người đó đánh hắn thế nào cũng không buông tay, tướng quân rất quý con ngựa chiến của ngài, sợ làm ngựa chiến bị thương, đành hỏi hắn có tâm nguyện gì, hắn liền nói muốn theo đại tướng quân chinh chiến sa trường, đền ơn nước”.
“Khi đó, hắn mới mười một, mười hai tuổi thôi, Tiết đại tướng quân đâu có coi trọng một thằng nhóc, chỉ thuận miệng thu nạp hắn, không ngờ người này hoàn toàn không sợ chết, mỗi lần đánh trận đều xông lên phía trước, giết địch nhiều nhất là hắn, bị thương nặng nhất cũng là hắn, Tiết đại tướng quân cảm động trước sự kiêu dũng của hắn, bèn nhận làm nghĩa tử. Mấy lần phong quan, hắn đều khước từ, nói là không cầu công danh, chỉ muốn báo quốc”.
“Bây giờ còn có kẻ trung quân ái quốc như vậy sao?”.
Tẩu tẩu Lý thị xen lời: “Hừ, ta thấy chưa chắc. Hắn tuy không có quan hàm, nhưng là nghĩa tử của Tiết Hoài, thân phận đó địa vị đó còn vinh quang hơn cả quan nhất phẩm đương triều. Ngươi nhìn hắn xem, dám nói năng như vậy với lão gia, còn tỉ võ với Kỳ Úc hầu, trong thiên hạ, làm gì có quan viên thứ hai nào dám ngông cuồng như thế!”.
Trong lúc mọi người bàn tán, Tiết Hoằng Phi đưa cung tên cho tiểu binh bên cạnh, quay người sang cười nói với Cơ Anh: “Hoằng Phi nhất thời ngứa tay, tranh bắn trước, mong hầu gia thứ tội”.
Cơ Anh vẫn nhìn mũi tên còn rung rung trên bia cỏ, sau đó chầm chậm đưa mắt sang, ngạc nhiên nhìn hắn, nói: “Tam công tử quả nhiên giỏi tiến pháp, Anh hôm nay đúng là được mở rộng tầm mắt”.
“Tiếp theo, đến lượt hầu gia”.
Cơ Anh cảm khái, đáp: “Anh tự nhận không được dứt khoát như tam công tử, đành lề mề một phen…”. Vừa nói vừa đứng dậy, chầm chậm đi đến trước vạch bắn.
Một đại hán áo xám trên mày trái có xăm một con rồng đỏ, dâng lên cây cung của chàng.
Cung và tên của Cơ Anh đều hết sức bình thường, không có(1)bất cứ trang trí nào, khiến đám nữ quyến hơi thất vọng, nhưng chiếc bản chỉ chàng lấy từ trong hộp ra lại vô cùng đẹp, không làm bằng chất liệu ngà voi, ngọc đương thịnh hành khi đó, mà được may bằng da thuộc, nhuộm một màu đỏ thắm cực kỳ mỹ lệ, hình như còn thêu hoa, nhưng khoảng cách quá xa nên nhìn không rõ.
Chàng đeo bản chỉ vào rồi dùng ngón cái kéo cung, dùng ngón trỏ và ngón giữa áp vào ngón cái, sau đó khẽ kéo một cái.
Tựa như cầm sư gảy cổ cầm;
Tựa như sương móc ngưng kết thành hạt châu;
Tựa như chim bay vút ra khỏi rừng cao; Tựa như thỏ chạy vụt ra khỏi hang… Nhẹ nhàng khẽ vút lên, khẽ lao đi.
Mũi tên trong chớp mắt đã bay đến trước chiếc đến lồng đầu tiên, xuyên “phập” vào, đúng lúc mọi người căng thẳng, nó lại đột ngột dừng lại.
Khương Trầm Ngư “a” lên, thầm kêu: Không xong rồi! Lẽ nào bắn chiếc đèn đầu tiên đã ngừng?
Sau đó lại nghe thấy “bụp” một tiếng, cả chiếc đèn đột nhiên nổ tung, trong ánh lửa, một ngọn lửa như rồng bay bắn vụt về phía trước, xuyên qua chiếc đèn lồng thứ hai, lại một tiếng nổ vang lên giòn giã, rồng lửa tiếp tục tiến lên, cứ như thế xuyên qua năm chiếc đèn lồng, cuối cùng bay đến bia cỏ, đốt cháy cả chiếc bia, cả bia lẫn tên hừng hực bốc cháy.
Tất cả những người có mặt không ai là không bị kỳ quan đó làm chấn động đến mức trợn mắt há mồm, nhất thời, cảnh tượng lặng phắc như tờ, chỉ nghe thấy tiếng lửa cháy xèo xèo và tiếng hít thở của mọi người.
Bia tên cuối cùng đã cháy hết, rơi bịch từ trên giá xuống dưới đất.
Cơ Anh lúc này mới buông tay, cười nói: “Anh hiến trò mọn rồi”.
Tiết Thái vỗ tay đầu tiên, được hắn nhắc nhở, những người còn lại cũng lũ lượt vỗ tay tán thưởng.
Tiết Thái nói: “Rất đẹp. Hầu gia biết về sức không bì kịp tam thúc, không thể bắn tên xuyên thủng đèn lồng mà không ngừng lại, vẫn lao về phía bia cỏ được như tam thúc, nên mượn lực tăng lực, để mũi tên thứ nhất dừng trong đèn lồng, trên m đó hẳn đã bôi thứ gì, vừa gặp lửa là bốc cháy phát nổ, thế nên đầu mũi tên mượn sức nổ tiếp tục bay về phía trước, cứ thế cho đến khi bắn vào bia”.
Cơ Anh cười bình thản, không thừa nhận, cũng không phủ nhận.
“Tiểu bối chỉ nói sau khi dùng tên bắn rách đèn lồng lại bắn trúng tâm bia, không hề nói không được dùng mưu trên cung tên. Tam thúc tiểu bối đã dùng hảo cung hàng đầu để tỉ thí, hầu gia đương nhiên cũng có thể dùng mũi tên đặc biệt. Hai người đều hoàn thành được đề thi của tiểu bối, vốn có thể coi là ngang tài ngang sức, nhưng mệnh đề của tiểu bối là phải bắn trúng tâm bia, về điểm này, mũi tên của hầu gia tuy cuối cùng cũng bắn trúng bia, nhưng lại không cắm vào tâm, cho dù bây giờ bia đã cháy hết, không thể xác minh, nhưng vừa nãy tiểu bối nhìn rất rõ, đề này hầu gia đã thua. Ngài có phục không?”.
Cơ Anh kêu “chà”, sờ mũi nói: “Vốn cho rằng có thể dùng tiểu xảo không ngờ vẫn không qua được mắt của ngươi. Hay lắm, ta nhận thua”.
Hai người họ, một người phán xét nghiêm khắc, một người nhận thua sảng khoái.
Khương Trầm Ngư xem tới đây, càng lúc càng thấy hứng thú. Tai nghe thấy đám nữ quyến bên cạnh trách móc: “Ấy, cái tên tiểu Tiết Thái kia đáng ghét quá đi, hầu gia rõ ràng bắn đẹp mắt hơn Tiết Hoằng Phi nhiều mà, sao lại còn lấy cái cớ nhỏ xíu ấy để phán ngài thua chứ?”.
“Đúng thế, đúng thế, bắn tên kiểu Tiết Hoằng Phi, chúng ta thấy nhiều rồi, còn bắn tên kiểu hầu gia, đây là lần đầu tiên chứng kiến, sao lại phán ngài thua được!”.
Oanh oanh yến yến, đầy bụng bất mãn.
Khương Trầm Ngư bụm môi cười, khiến Lý thị tò mò: “Trầm Ngư, muội cười gì đấy?”.
“Không có gì… nhưng muội cảm thấy, lần tỉ thí này, cuối cùng chắc chắn sẽ hòa”.
“Hả? Tại sao? Làm thế nào muội biết được?”.
“Tóm lại, tẩu tẩu tiếp tục xem sẽ biết”. Nàng úp úp mở mở, ra vẻ thần bí, nhưng ánh mắt thủy chung vẫn dán vào cảnh tượng dưới lầu, không nỡ rời mắt.
Lúc này, Tiết Thái ra đề thứ hai: “Xưa có thần xạ thủ Phi Vệ, thu nhận một đồ đệ tên là Kỷ Xương, lệnh cho Kỷ Xương phải học không chớp mắt trước tiên rồi mới nói đến bắn tên. Năm năm sau, Kỷ Xương nhìn thấy rận dưới lớp lông của con bò Yak, con nào con nấy đều to như một trái núi, một tên bắn đi trúng giữa con rận, nhưng cọng lông bò mà con rận bám lại không hề đứt. Lúc này tiễn thuật mới thành. Từ đó có thể thấy, bắn xa khó, bắn nhỏ càng khó hơn. Đề thứ hai của tiểu bối chính là: Tại đây, hai vị chọn một vật để ngắm bắn, đồ ai bắn nhỏ nhất, người đó sẽ thắng”.
Hắn càng nói càng đắc ý, càng nghĩ càng thấy đề thi này của mình tuyệt diệu, (hắn) có thể sánh với Phi Vệ, hơn nữa người tỉ thí tự chọn vật để bắn, đối với họ mà nói lại càng tốn tinh lực hơn, đã khó lại thêm khó… Đương lúc vui sướng, một tiếng gió vút đến.
Nói là một tiếng, kỳ thực có hai luồng gió, xẹt qua hai bên tai, sau đó “ting” một tiếng, phát ra âm thanh rung rung.
Hóa ra hai mũi tên được bắn ra cùng lúc, hơn nữa bay sát qua mặt hắn, bắn trúng bức bình phong sau lưng hắn.
Con ngươi của Tiết Thái co lại, sắc mặt trắng nhợt.
Tiết Hoằng Phi cười ha hả: “Không ngờ hầu gia và ta lại cùng nghĩ đến một vật. Tiểu Thái, cháu đứng đó làm gì, còn không quay đầu sang nghiệm thu kết quả? Nhưng động tác phải nhẹ nhàng một chút, tránh làm đứt tóc”.
Hai viên thị tòng vội vàng bước lên, nhổ mũi tên trên bình phong ra, chỉ thấy mỗi mũi tên xuyên qua một sợi tóc, mà sợi tóc đó vẫn bám trên đầu Tiết Thái, chưa hề đứt đoạn.
Không cần nói, hai mũi tên này đương nhiên là của Tiết Hoằng Phi và Cơ Anh bắn.
Đám nữ quyến trên lầu xem đến đây, ai nấy đều cười gập cả bụng: “Ai da, muội xem vẻ mặt của tiểu Tiết Thái kìa, đúng là đặc sắc ngàn năm hiếm thấy! Nó e là nằm mơ cũng không ngờ, hai người đó lại dám hạ thủ với nó!”.
“Nhìn từ điểm này, có thể thấy Tiết Hoằng Phi và hầu gia thật ăn ý, cùng nghĩ đến bắn sợi tóc của Tiết Thái. Việc này không phải giỡn chơi, chẳng may lỡ tay, thọ yến đêm nay liền biến thành tang yến rồi!”.
Quả nhiên, Tiết Thái giận dữ nói: “Cái này không tính!”.
Tiết Hoằng Phi căn vặn: “Sao không tính?”.
“Hai người chọn cùng một vật, làm sao phân thắng thua được? Hơn nữa tóc, tóc của cháu, căn bản không thể coi là một vật nhỏ!”.
Cơ Anh cười tươi rói, nói: “Đúng là không tính. Nghe nói trong vạn vật, con ngươi trong mắt người là nhỏ nhất, khi co lại cực độ so với lỗ kim còn nhỏ hơn trăm lần, chi bằng mũi tên tiếp theo bắn vào mắt, được chứ?”.
Thấy chàng làm tư thế giương cung, Tiết Thái vô thức bịt mắt mình, kêu lên: “Không được, không được, không được bắn mắt tiểu bối! Được rồi, đề này hai người đều qua, hòa hòa!”.
Lời vừa thốt ra, phía dưới cười rộ lên.
Bữa tiệc vốn vạn phần căng thẳng, cũng nhờ thế mà thoải mái hơn.
Tiết Thái biết mình bị bỡn, trong lòng tức giận, sầm mặt ra đề thứ ba: “Người đâu”.
Mấy tên gia bộc bưng mười hai quả bóng nước may bằng da lợn đặt trên chiếc giá cao bằng nửa thân người, đầu cuối liền nhau, xếp thành vòng tròn, ở giữa vừa đủ một người đứng.
Tiết Thái nói: “Đây là một vòng tròn bóng nước, chất liệu da cực mỏng, dao sắc chạm vào là rách. Đề thứ ba của tiểu bối chính là: Người đứng trong vòng tròn, có thể dùng một mũi tên làm rách toàn bộ bóng nước hay không?”.
“Nó điên rồi!”. Một nữ quyến kinh ngạc nói: “Sao có thể làm được?”.
“Đúng thế, người phải đứng giữa vòng tròn, còn dùng một mũi tên bắn vỡ toàn bộ bóng nước, lẽ nào mũi tên đó có thể chuyển hướng sao?”.
“Đương nhiên, à đúng rồi, phải dùng cung tên bình thường”. Tiết Thái nói đoạn liếc Cơ Anh một cái, hàm ý không cho phép dùng bất cứ thủ thuật nào trên mũi tên. Cơ Anh chỉ cười không nói, còn Tiết Hoằng Phi đã lắc đầu nói: “Không thể làm được, không thể có người làm được!”.
“Nếu hai vị không làm được, tiểu bối có thể làm cho hai vị xem. Nhưng…”. Tiết Thái chớp mắt cười nói: “Lúc trước hai vị chỉ nói tỉ võ, không định ra phần thưởng, hai vị đều không quan tâm thì cũng được thôi, nhưng tiểu bối đã nhập cuộc thì nhất định phải có được chút lợi lộc. Cũng có nghĩa là nếu hai vị không làm được đề thứ ba này mà tiểu bối làm được, tiểu bối sẽ đòi mỗi người một món đồ”.
Tiết Hoằng Phi nhướn mày: “Ta biết vừa nãy bắn tóc của cháu, cháu ghim hận trong lòng, quả nhiên bây giờ liền báo thù. Nói đi, cháu muốn gì?”.
Thường ngày hẳn Tiết Thái và hắn đã quen nói móc châm chọc nhau, bây giờ bị nói thành nhỏ mọn thù dai cũng không hề bận tâm, chỉ là hai mắt sáng rỡ, vui sướng đáp: “Được, cháu muốn cây Phá Thiên cung của thúc!”.
Tiết Hoằng Phi giơ cây trường cung màu đen trên vai lên, cười nói: “Từ khi cháu bắt đầu học bắn tên đã luôn muốn có cây cung này của ta, cũng được, nếu cháu thực sự thực hiện được đề thứ ba mà ta không làm được, cây cung này cho cháu coi như là mỹ nhân xứng với lan thảo, cùng tỏa sắc khoe hương”.
“Tam thúc đồng ý?”.
“Ta không nói cho cháu bây giờ, ít nhất cháu phải để ta thua tâm phục khẩu phục mới được”.
“Được hứa chắc như vậy nhé!” Tiết Thái lại nhìn sang Cơ Anh, ngắm kỹ chàng một lượt từ đầu xuống chân.
Cơ Anh nửa cười nửa không, cuối cùng hắng giọng nói: “Ngắm trúng thứ gì sao?”.
“Ừm. Nếu tiểu bối thắng, tiểu bối muốn bản chỉ của hầu gia”.
Lý thị cười nói: “Ái chà, đúng là không nên khoe báu vật trước mặt tên tiểu quỷ này, phàm những thứ nó thích, có thứ gì thoát được? Phá Thiên cung của Tiết Hoằng Phi, bản chỉ của Kỳ Úc hầu, bộ trang bị coi như đầy đủ rồi. Hóa ra, vị tiểu thiếu gia này đến thọ yến của lão gia là để tìm lễ vật à?”.
Khi mọi người đều cho rằng Cơ Anh sẽ đồng ý, sau đó đợi xem Tiết Thái thực hiện đề thứ ba như thế nào, Cơ Anh lại nói một từ: “Không”.
“Cái gì?”. Tiết Thái sửng sốt.
Cơ Anh nhẹ nhàng vuốt ve chiếc bản chỉ đó, ánh mắt dịu dàng, nụ cười nhàn nhạt: “Chiếc bản chỉ này là vật ta yêu thích nhất cho nên không thể bỏ được”.
Tiết Thái lộ vẻ thất vọng, không đợi hắn nói tiếp, Cơ Anh đã cởi áo bào, bước về phía vòng tròn bóng nước đó, vừa đi vừa nói: “Ta đã không nỡ cho ngươi, cho nên, đề này chỉ có thể thắng, không được phép thua”.
Nữ quyến kinh ngạc nói: “Ối? Hầu gia sẽ thực hiện đề thứ ba?”.
“Đến Tiết Hoằng Phi còn bỏ qua đề thứ ba, hầu gia thực sự làm được sao?”.
“Cái bản chỉ đó nếu như làm bằng da thì đâu phải là vật quý giá gì, tại sao hầu gia không chịu cho Tiết Thái?”.
Trong tiếng bàn tán, Cơ Anh bước đến trung tâm vòng tròn bóng nước, Chu Long mang cung tên lên. Ai nấy mở to mắt nhìn, xem chàng kéo cung thế nào. Trước khi nhận cung, chàng ngẩng đầu nói: “Người phải đứng trong vòng tròn?”.
Tiết Thái gật đầu: “Người phải đứng trong vòng tròn”. “Một tên làm vỡ toàn bộ bóng nước?”.
“Đúng, một mũi tên làm vỡ tất cả bóng nước”.
“Còn có yêu cầu khác không?”.
Trên mặt Tiết Thái chợt hiện lên vẻ cổ quái, nhưng ánh mắt càng sáng bừng, cuối cùng gật gật đầu: “Không có”.
“Được”. Cùng với tiếng “được”, chỉ thấy ống tay áo Cơ Anh vung lên, chúng nhân vẫn chưa nhìn rõ chuyện gì vừa xảy ra đã nghe thấy một tiếng “phập”, rào rào, tất cả bóng nước đã vỡ toạc, nước bên trong ào ra.
Mà trong vòng tròn bóng nước đang trào xối xả đó, Cơ Anh tóc đen áo trắng, nụ cười nhàn nhạt, nhìn Tiết Thái, nói: “Ta làm xong rồi”.
Chàng giơ tay phải lên, mũi tên ẹp giữa ngón tay sáng lấp lánh dưới ánh đèn.
Khương Trầm Ngư nhớ lại, đúng rồi, khi đó, Cơ Anh đã thắng như thế…
Chàng không dùng phương pháp ghê gớm gì, cũng không có kỳ kế đặc biệt gì, chàng chỉ tùy tiện bước vào trong vòng tròn, không dùng cung tên, chỉ lấy một mũi tên, sau đó cầm tên xoay tròn một vòng, đầu mũi tên đâm tới đâu, bóng nước vỡ sạch tới đó…
Một phương pháp đơn giản biết bao.
Nhưng lúc đó, ngoài chàng ra, không ai nghĩ tới.
Tiết Thái chỉ nói phải đứng trong vòng tròn, phải dùng một mũi tên làm vỡ tất cả bóng nước, nhưng hắn không nói mũi tên đó phải bắn từ cung tên. Cơ Anh nắm được kẽ hở duy nhất đó, chiến thắng cửa này.
Bởi vì đề thi ngày đó là tỉ thí tiễn pháp, lại thêm hai đề trước quả thực đều là dùng cung bắn tên, vì thế tạo thành ám thị tâm lý cho mọi người rằng đề thứ ba cũng là bắn tên, mà quên mất rằng không dùng cung, chỉ cần dùng tay giữ tên cũng có thể làm được.
Đến giờ nàng vẫn không quên vẻ mặt Tiết Thái khi đó, bởi vì bản thân nàng khi đó cũng có biểu cảm giống như vậy.
Sau chấn động, bái phục, có chút đố kỵ, là ngưỡng mộ khó nói nên lời.
Kỳ Úc hầu, Cơ Anh.
Bạch Trạch công tử, Cơ Anh.
Chàng hóa ra là người như thế…
Hết thảy ánh đèn trong thọ yến đều tối đi, chỉ có chàng đứng giữa sân, thu hết ánh sáng và tinh hoa của đất trời, tỏa sáng chói lọi, rực rỡ lay động lòng người.
Đó là lần đầu tiên nàng thấy Cơ Anh.
Có lúc tình cảm kỳ lạ như thế, chưa từng hội ngộ thì thôi, nhưng một khi đã hội ngộ, khi nghe người khác kể những sự tích về chàng, tâm trạng đã hoàn toàn biến đổi.
Sau thọ yến hôm đó, lúc tẩu tẩu chỉ huy đám người hầu trong phủ thu dọn, tẩu tẩu hỏi: “Sao muội biết cuộc tỉ thí đó chung cuộc sẽ hòa?”.
Nàng đáp: “Muội nghĩ thế này: Sở dĩ hầu gia đứng ra ôm việc này vào người là để giải vây cho cha, nhưng cũng không thể vì thế mà đắc tội với Tiết gia, cho nên, nếu là muội, chắc chắn sẽ đánh hòa, như thế mình không mất thể diện, đối thủ cũng đẹp mặt. Nhưng không ngờ Tiết Thái lại chen chân, đề ra lại khó như thế, có lẽ lúc đó hầu gia cũng đau đầu lắm. Nhưng ngài thông minh như thế, đề bài của Tiết Thái làm khó được Tiết Hoằng Phi, nhưng không làm khó được ngài. Cho nên, cuối cùng vẫn theo kế sách ban đầu của ngài, viên mãn tàn cuộc Đêm nay… nếu không có hầu gia, thật không biết sự tình sẽ biến thành thế nào nữa…”.
Lý thị thở dài, gật đầu nói: “Đúng thế. Haizz, lão gia cái gì cũng tốt, nhưng vì quá tốt, nên việc gì cũng nhường nhịn, dẫn đến đối phương càng ngày càng không coi chúng ta ra gì, cứ thế này thì khó sống lắm. May mà từ khi Họa Nguyệt vào cung luôn được sủng ái, nhà ta đều nhờ hết vào muội ấy…”.
Nhớ đến tỉ tỉ tiến cung năm ngoái, trong lòng Trầm Ngư lại nhói đau, thế là, cảnh tượng xoay vòng, khi dừng lại, trước mặt là một cảnh tượng xa hoa lộng lẫy, đèn đuốc sáng trưng, không có gì thay đổi, cũng là tiệc mừng thọ như thế, cũng tân khách tụ hội như mây, đến thứ tự chỗ ngồi dường như cũng không thay đổi, nhưng vị trí của Cơ Anh lại trống huơ trống hoác.
Rõ ràng nàng đứng ở trung tâm hội trường, nhưng tất cả mọi người đều không thấy nàng, họ thì thầm bàn tán, những lời nói rì rầm xen kẽ, nặng nề lọt vào tai nàng “Nghe nói đêm nay Kỳ Úc hầu không đến đâu. Hầu gia bệnh rồi!”.
“Ta cũng nghe nói, bệnh hình như nặng lắm, đã hơn nửa tháng không lên triều rồi”.
“Có nghe nói là bệnh gì không?”.
“Không rõ, chỉ nói là nhiễm phong hàn, giờ mới tháng tư, đương lúc xuân quang rực rỡ, sao lại nhiễm phong hàn được?”
“Nghe nói là vì mẫu thân bệnh nặng qua đời, thương tâm quá đỗi, cho nên mới bị bệnh”.
“Vậy thì đúng rồi, Kỳ Úc hầu từ lâu đã có tiếng là hiếu tử”.
Hóa ra là thế, giờ là năm Đồ Bích thứ ba, mừng thọ lần thứ năm mươi mốt của phụ thân, nàng nhớ mình dậy từ sớm tỉ mỉ trang điểm, biết rằng nữ quyến không được nhập tiệc, người đó kỳ thực không nhìn thấy nàng, nhưng nàng vẫn mặc chiếc áo đẹp nhất, chải kiểu tóc đẹp nhất, thẹn thùng trốn sau cửa sổ giống như năm trước, ngóng trông người đó đến.
Thế nhưng vị trí của chàng luôn để trống.
Bởi vì chàng bệnh rồi, mọi người đều nói chàng không đến được.
Nàng thất vọng vô cùng.
Nhưng đám nữ quyến lại bàn tán một chuyện khác: “Này, muội có nghe nói chuyện về mỹ nhân đó không?”.
“Hả? Tỉ nói có phải là… đại mỹ nhân đó?”.
“Mỹ nhân gì?”. Có người tò mò.
Tẩu tẩu thở dài: “Thì chuyện hoàng thượng thích một cung nữ, không những sủng hạnh thị, mà ngay ngày hôm sau còn phong làm phu nhân”.
“Cái gì? Phong luôn làm phu nhân? Đó chẳng phải là cung hàm còn cao hơn quý nhân nhà chúng ta sao?”.
Tẩu tẩu lo lắng nói: “Đúng thế, từ trước tới nay chưa từng có lệ phong vượt liền mười cấp như thế, khiến Họa Nguyệt tức tối tái mặt. Nhưng làm thế nào được, hoàng thượng kiên quyết muốn thế, các đại thần khuyên cũng chẳng được, nghe nói Tiết gia vốn cũng không đổi ý, cực lực phản đối, kết quả trung lang tướng vừa nhìn thấy mặt phu nhân đó, hồn phách điên đảo luôn, không nói nổi nửa chữ… Có thể thấy dung nhan cung nữ đó họa thủy đến mức nào!”.
“Muội còn nghe nói, bây giờ trong cung đang chuẩn bị vật liệu, chuẩn bị xây Lưu Ly cung cho vị phu nhân mới đó nữa”.
Đám nữ quyến nhất loạt thở dài.
Quả thực, Bích quốc từ khi dựng nước tới nay, chưa từng có hoàng phi nào được sủng ái đến mức đó.
“Vật cực tất phản, vinh hoa chẳng dài lâu”. Tẩu tẩu kết luận như thế.
Nàng nghe thấy những lời thị phi đó, trong lòng lơ đãng, đang lúc mơ màng, phía dưới lại xôn xao ồn ào, không biết ai đó hét lên: “A! Kỳ Úc hầu đến rồi!”.
Nàng lập tức bay xuống từ cửa sổ, cơ thể nhẹ bẫng, nhưng tốc độ cực nhanh, chớp mắt đã đến trước mặt Cơ Anh.
Cơ Anh đang được người hầu trong phủ dẫn đường, đi vào hội trường.
Còn nàng đứng cách chàng một thước, chàng tiến một bước, nàng lùi một bước, nhìn chàng không hề rời mắt.
Đây là lần thứ hai nàng gặp Cơ Anh, cách lần thứ nhất vừa tròn một năm.
Dáng vẻ mày mắt chàng vẫn chưa hề phai nhạt trong tâm trí nàng, nhưng chàng đã khác rồi…
Cơ Anh khi ấy phong thái hào sảng, nhân nhã vô mưu, nụ cười ấm áp, khiến người ta cảm thấy bất cứ lúc nào nhìn thấy một người như thế cười cũng là một chuyện vô cùng vui vẻ.
Mà nay, ngũ quan vẫn là ngũ quan khi xưa, nhưng khí chất đã hoàn toàn khác biệt, hai mắt hõm sâu, tròng mắt vằn máu, không có thần thái, cũng không có sức sống, vô cùng tiều tụy.
Nàng còn đang hoảng hốt kinh ngạc, phụ thân đã nhanh chân nghênh đón: “Hầu gia bệnh mà vẫn đến, thật là ưu ái lão phu, mời hầu gia ngồi!”.
Cơ Anh cười cười, đưa quà mừng, lễ số tuy chu toàn, nhưng vẫn có một cảm giác xa cách, tâm tư để ở tận đâu đâu, đến khi an tọa, cảm giác này càng rõ rệt, có người lên chúc rượu, chàng đón lấy uống cạn, người khác cười, chàng cũng cười theo.
Nàng nghĩ nàng đúng là ngu độn, sự tình rõ ràng như thế, nhưng năm đó nàng lại hoàn toàn không nhìn ra – Người ngồi uống rượu ở đó rõ ràng là một linh hồn đau khổ đến cùng cực, đang giằng xé và nghẹn ngào trong im lặng.
Cơ Anh uống hết chén này đến chén khác, nàng thấy rượu sánh ra ướt đẫm áo chàng, nàng còn nhìn thấy một bàn tay chàng giấu dưới bàn đang run run, nàng nhìn thấy cuối cùng chàng gạt người hầu ra, tự đứng dậy, loạng choạng bước vào hậu hoa viên.
Nàng vội vàng đi theo, rồi nhìn thấy chàng ôm hòn giả sơn nôn thốc nôn tháo, nôn mãi nôn mãi, bỗng dưng bắt đầu cười khẽ cười mãi cười mãi, rồi dừng lại, ngẩng đầu lên, ngước nhìn vầng trăng sáng trên bầu trời, im lặng thẫn thờ.
Nam tử tên Chu Long đứng bên cạnh, đưa cho chàng một chiếc khăn ướt, nói: “Hầu gia, chúng ta về thôi”.
“Về”, ánh mắt Cơ Anh trở nên thảng thốt, bỗng nói: “Không, ta còn phải thi bắn tên với Tiết Thái…”.
“Hầu gia”, trong giọng nói của Chu Long chất chứa vài phầnđau khổ, “Tiết tiểu công tử đi Yên quốc, ngài quên rồi”.
“Vậy sao?”. Cơ Anh có vẻ rất ngạc nhiên, lẩm bẩm, “Đi Yên quốc rồi à, thảo nào năm nay không thấy… đi Yên quốc rồi… đi Yên quốc rồi”.
“Hầu gia, chúng ta về thôi”. Chu Long đưa tay dìu chàng, Cơ Anh lại như nhìn thấy một thứ gì rất đáng sợ, hất tay y ra, sau đó lùi lại mấy bước, đến khi đứng vững, mới nhận ra mình thất thố, ánh mắt tối sầm, thấp giọng nói: “Nhưng… ta không muốn về. Chu Long, ta không muốn về…”.
“Hầu gia…”.
“Ta muốn ở đây thêm một lúc nữa, một lúc nữa thôi…”.
Giọng chàng càng lúc càng nhỏ, ánh mắt càng lúc càng thê lương, chàng lấy một chiếc túi gấm từ trong tay áo ra, mở ra, trong đó là chiếc bản chỉ chàng đã đeo trong lúc thi bắn tên năm ngoái.
Ánh trăng như nước.
Màu sắc của chiếc bản chỉ đã nhạt đi rất nhiều, loáng thoáng ánh lên màu đỏ sẫm như sắc máu.
Cơ Anh chăm chú nhìn chiếc bản chỉ đó, ánh mắt lay động từ nhạt chuyển sang đậm, lại từ đậm biến thành nhạt, cuối cùng khẽ cười: “Bỏ đi, bỏ đi, bỏ đi…”, chàng nói liền ba tiếng “bỏ đi” rồi giơ tay lên như muốn vứt đi, nhưng tay vung đến nửa chừng lại dừng lại, như hóa đá giữa không trung, vẻ bi thương hiện lên trên khuôn mặt.
Chu Long đứng bên thở dài, nói: “Hầu gia, người… hà tất phải…”.
“Vứt, không, được, Chu Long, ta vứt không được… Đến phút này, ta vẫn, không nỡ vứt… Ha ha, ha ha ha ha… haizz.”.
Thanh âm ngưng bặt, cánh tay mềm nhũn buông xuống, chàng nắm chiếc bản chỉ đó, cúi đầu lặng yên.
Tiếng gió ù ù, mấy đám mây trời che khuất vầng trăng tròn.
Cơ Anh đứng giữa bóng tối, vẻ ảm đạm bao trùm lấy chàng.
Khương Trầm Ngư đứng cách chàng khoảng ba trượng, nàng nghĩ nam tử này tại sao lại ưu sầu đến thế. Chàng rõ ràng thông minh đa tài như thế, bất cứ câu đố nào cũng không làm khó được chàng mới phải, chàng luôn tươi cười ôn hòa, nhã nhặn, luôn có thể dùng nụ cười che giấu nội tâm… Nhưng, đêm nay, nam tử đứng bên hòn giả sơn nôn thốc nôn tháo rồi lại cúi đầu im lặng này, tuy không phong tư hào sảng, cao quý tao nhã khó tả bằng lời như trước, nhưng lại khiến nàng thực sự cảm thấy đau lòng.
Nàng nhìn dáng vẻ này của chàng, trái tim đau nhói.
Rất muốn chạy tới ôm lấy chàng, dùng giọng nói dịu dàng nhất, nói với chàng, đừng buồn nữa;
Rất muốn làm cho chàng điều gì đó, để chàng lấy lại vẻ vinh quang và rạng rỡ khi trước;
Rất nhiều lời muốn nói, rất nhiều việc muốn làm…
Nhưng mà, nàng không cất bước nổi, chỉ có thể im lặng chăm chú nhìn chàng, cứ thế nhìn mãi nhìn mãi.
Công tử, chàng biết không, thực ra, trước khi Khương thị quyết định liên hôn với chàng, ta đã dõi theo chàng từ lâu, từ rất lâu rồi…
Từng thấy ngọc trắng nhuộm vết nhơ.
Ngày qua tháng lại mà chẳng thấy.
Trái tim đột nhiên như bị bóp chặt, đau đến mức không thở nổi, nàng không kìm được giãy giụa, hai mắt mở ra, bừng tỉnh thoát khỏi giấc mộng.
Đập vào mắt là: Di Phi lạnh lùng nhìn nàng, cười nhạt: “Nàng tỉnh rồi?”.
Lúc này Khương Trầm Ngư mới nhớ ra, trước đó mình nhảy xuống hồ mò hạt châu, sau đó chân phải bị chuột rút, liền chìm xuống. Nàng vội nàng cúi đầu xem xét bản thân, phát hiện y phục vẫn còn nguyên, nhưng không biết vì sao mà đã khô ráo, còn mình vẫn nằm trên thuyền hoa, xem ra thời gian hôn mê không quá lâu, nhưng trong mộng cảnh ban nãy lại như đã qua một đời.
Nhớ đến mộng cảnh, nàng không khỏi bồi hồi.
Di Phi thấy nàng như vậy, cười mỉa: “Sao? Mơ thấy tình lang của nàng à?”.
Khương Trầm Ngư sắc mặt trắng bệch, lẽ nào trong cơn mộng mị nàng đã nói những lời không nên nói sao? Đang thấp thỏm sợ hãi, Di Phi lại nói: “Yên tâm, hảo sư huynh của nàng đã thoát khỏi hiểm nghi rồi, tên thái giám giả mạo đó đã khai hết, đêm qua kẻ lén lút tư thông với La quý phi là hắn, còn hảo sư huynh của nàng chẳng qua là kẻ thế mạng xui xẻo mà thôi”.
Khương Trầm Ngư ngước mắt, hàng lông mày nhỏ xinh khẽ cau lại. Hoàn toàn không tin lời giải thích này.
“Tại sao đêm qua sư huynh ta đến Tây cung?”.
“Khi hắn khám bệnh cho phụ vương, phụ vương nói lúc bệnh người mới phát hiện là La quý phi đích thân chăm sóc, từng ghi chép tình hình ăn uống mỗi ngày của người, cho nên, Đông Bích hầu khám bệnh xong liền đến Tây cung, định hỏi xin La quý phi cuốn sổ ghi chép đó”.
“Sau đó đụng phải chuyện xấu hổ kia? Đã không phải lỗi của huynh ấy, tại sao không chịu nói rõ”.
Di Phi uể oải nói: “E là La quý phi đã cầu xin hắn gì đó, hắn đã nhận lời, để thực hiện lời hứa đành phải che giấu đến cùng”.
Khương Trầm Ngư cúi đầu ngẫm nghĩ một lúc, khi ngước mắt lên, vẻ mặt vô cùng nghiêm túc: “Ngài cảm thấy ta sẽ tin lý do này sao?”.
Di Phi nhìn nàng, một lát sau toét miệng cười: “Thật trùng hợp, ta cũng không tin lắm. Nhưng, lý do như thế đối với người khác cũng là đủ rồi”.
Khương Trầm Ngư thầm nghĩ, trong chuyện này bí ẩn trùng trùng, nếu tiếp tục tìm hiểu sâu hơn, e rằng sẽ kéo theo nhiều người, nhiều âm mưu hơn nữa, vì thế, đối với những người không muốn bị liên lụy, lý do này quả thực là phù hợp nhất. Nói cách khác, cứ coi là có sự tình khác bên trong, cho dù có làm rõ, e là cũng chỉ có thể giấu kín trong lòng chứ không thể tiết lộ ra ngoài.
Nghĩ đến đây, nàng không kìm được đưa tay sờ dái tai, mà vừa sờ đến dái tai liền nhớ ra một chuyện, mặt lại biến sắc: “Hạt châu…”.
Chết rồi, hạt châu vẫn ở dưới hồ!
Lập tức ngồi dậy định nhảy xuống đất nhưng bị Di Phi ngăn lại, nhìn nàng cười hì hì: “Làm gì thế?”.
“Thả ta ra, ta phải đi tìm…”.
“Tìm cái này?”, trong tay phải Di Phi bỗng xuất hiện một vật, gã huơ huơ trước mắt nàng.
Khương Trầm Ngư nheo mắt nhìn, đó chẳng phải là hạt châu chứa độc Chiêu Doãn ban cho nàng sao?
“Ngài… giúp ta vớt lên?”.
Di Phi phì cười, cánh tay chợt vung lên, vứt hạt châu đó ra khỏi khung cửa sổ đang mở. Khương Trầm Ngư kinh hãi, cuống quýt kêu: “Ngài!”.
Mới nói được một tiếng, lại thấy hạt châu đó nằm trong tay gã, gã tiếp tục huơ huơ.
Di Phi nhìn biểu cảm ngây ngốc hiếm có của nàng, cười nói: “Thấy nàng nóng ruột thế, thật là thú vị”.
Khương Trầm Ngư tự biết mình bị đùa giỡn, lập tức sầm mặt, không nói câu nào. Di Phi biết nàng nổi giận, không đùa nữa, nhét hạt châu vào tay nàng, đi đến bên cửa sổ, mở từng cánh cửa ra.
Gió nhẹ thổi vào trong phòng, tấm màn lụa khe khẽ phất phơ, gã chăm chú nhìn mặt hồ lăn tăn gợn sóng bên ngoài, chợt nói: “Ngu thị, hãy liên thủ với ta”.
Khương Trầm Ngư sững sờ.
Tay áo của Di Phi căng phồng, bay phấp phới như cánh bướm, giữa trang phục màu sắc hoa lệ, gương mặt gã nhợt nhạt, mày mi đậm màu, gương mặt không còn vẻ bỡn cợt, khinh mạn như trước: “Nàng nhìn nơi chân trời kia gió nổi mây đùn, mưa lớn sắp ập tới, chúng ta lại ngồi cùng thuyền, không trốn đi đâu được. Chi bằng liên thủ, sớm cập bờ bên kia”.
Lời gã nói rất chân thành, Khương Trầm Ngư nghe xong, im lặng một lúc mới trả lời: “Ta là một dược nữ quèn”.
Di Phi bật cười, quay người lại nhìn nàng, chậm rãi nói: “Ta nghĩ một dược nữ bình thường không cần một chiếc hoa tai chứa Hồng Trậm”.
Ngón tay Khương Trầm Ngư run run, hạt châu nhỏ xíu trơn bóng đó bỗng trở nên nặng tựa ngàn cân trên tay nàng.
Di Phi lại tiếp: “Mà một dược nữ bình thường, bên mình cũng không cần hai cao thủ thượng thừa bí mật đi theo”.
Độc châu trong tay nàng nóng như lửa đốt, cơ hồ cầm không chắc.
Một bầu không khí im lặng bao trùm trong khoang thuyền.
Hai người đều không nói gì, chỉ có gió, từng trận từng trận gió thổi vào làm tóc nàng và tóc gã không ngừng tung bay.
Qua một thời gian rất lâu, Khương Trầm Ngư mới ngẩng đầu lên, khẽ nói: “Ngài cần ta làm gì?”.
Di Phi nghiêm mặt nói: “Bước thứ nhất đương nhiên là điều tra ra ở Tây cung đêm đó đã xảy ra chuyện gì”. Nói đến đây, lông mày gã lại nhướng lên châm chọc, giọng nói lại trở nên cợt nhả, “Nếu ta đoán không nhầm, ở Tây cung đêm đó, ngoài sư huynh nàng và La quý phi còn có người thứ ba, mà người thứ ba đó tuyệt đối không phải là Phúc Xuân”.
Khương Trầm Ngư nghĩ đến khả năng nào đó, dường như để khẳng định suy nghĩ của nàng, Di Phi đồng thời nói: “Mà là một trong hai huynh trưởng của ta”.
Một tiếng sấm rền vang ầm ầm vọng tới, sắc trời trong chốc lát tối sầm lại, Khương Trầm Ngư và Di Phi nhìn nhau, đều nhìn thấy biểu cảm của mình trên gương mặt đối phương.
Mình thật ngốc… Khương Trầm Ngư nghĩ, từ sau khi sự việc xảy ra, nàng chỉ cho rằng Trình quốc bày kế cố ý hãm hại họ, chỉ cho rằng Giang Vãn Y bị oan mà chưa từng nghĩ khi Chiêu Doãn chọn người cầu hôn Di Thù, cũng ngầm xác định người kế vị Trình vương. Nàng có thể đảm nhận sứ mệnh khác, Giang Vãn Y đương nhiên cũng có thể. Đêm đó trong Tây cung, có lẽ hắn đã gặp mặt hoàng tử mà Chiêu Doãn chọn lựa, không ngờ nửa đêm Trình vương đột nhiên tỉnh giấc đòi tìm hắn, không có cách nào khác, đành dùng tiếng xấu để che giấu âm mưu cơ mật, hy sinh một ả quý phi còn tốt hơn sự tình bại lộ dẫn đến lên ngôi không thành.
Nàng vốn là một người tinh ý, bây giờ được Di Phi nhắc nhở, những chuyện không hiểu trước đó trong tích tắc xâu chuỗi lại với nhau, trở nên rõ ràng. Vậy thì, rốt cuộc Chiêu Doãn lựa chọn vị hoàng tử nào?
Là Lân Tố? Hay Hàm Kỳ?
Còn Di Phi sao có thể chịu ngồi chờ chết, liệu sau lưng gã còn có nước nào ủng hộ không? Nước ủng hộ gã là Yên quốc hay là Nghi quốc?
Vừa nghĩ đến Nghi quốc, bỗng nghe Sơn Thủy bên ngoài khoang thuyền bẩm báo: “Tam điện hạ, Nghi vương đến”.
Khương Trầm Ngư vô thức cau mày, lẽ nào Hách Dịch thực sự câu kết với Di Phi? Chẳng ngờ, Di Phi nghe xong, quay lại cười giảo hoạt: “Chúc mừng nàng, anh hùng đến cứu mỹ nhân rồi” .
Nàng vẫn chưa hiểu ý gã, liền nghe giọng Hách Dịch từ bên ngoài vọng vào: “A Ngu cô nương có trên thuyền không?”.
Di Phi vén rèm, bước ra ngoài, Khương Trầm Ngư nghe gã đứng trên mũi thuyền cười nói: “Thật không ngờ, chỉ là một dược nữ của Bích quốc lại có vinh dự lớn thế, được đích thân Nghi vương đến đón”.
Hách Dịch cũng cười: “Tính mệnh quan trọng, không thể không đến. Thực không dám giấu, tiểu vương trên người còn có vết thương chưa lành, đều là A Ngu cô nương châm cứu chữa trị cho, bây giờ đã đến giờ châm cứu, tiểu vương toàn thân đau nhức khôn xiết, đi đến dịch trạm lại nghe nói A Ngu cô nương đến phủ tam điện hạ, bèn vội vàng lao đến đây”.
Di Phi cười: “Hóa ra là thế, quả nhiên tính mệnh quan trọng. Đã như vậy, ta cũng không dám giữ Ngu cô nương, làm hỏng đại sự của bệ hạ. Mời bệ hạ đón nàng về”.
Khương Trầm Ngư nghe gã chịu thả mình đi, vội vàng đứng dậy bước ra, thấy thuyền hoa đã chèo về phía bờ, Hách Dịch đang đứng trên bờ, toàn thân hồng y, nụ cười ấm áp rạng ngời.
Giờ này phút này, gặp nhau như thế, thật đúng là tựa như đã trôi qua một đời.
Không đợi thuyền cập bờ, Hách Dịch đã đưa tay ra, Khương Trầm Ngư vội đưa tay cho y, y khẽ nắm lấy, nửa ôm nửa đỡ nàng lên bờ. Di Phi thu trọn vẹn cảnh tượng ấy vào trong tầm mắt, ánh mắt gã bỗng hơi tối đi.
Đến khi nàng đứng vững, Hách Dịch liền chắp tay nói với Di Phi: “Chúng ta xin cáo từ”.
Di Phi cười mỉm: “Đi cẩn thận, không tiễn”.
Hách Dịch đưa Trầm Ngư lên xe, xe ngựa thuận lợi rời khỏi vương phủ, không hề gặp bất cứ trở ngại nào.
Lại một tia chớp xé rạch bầu trời, trời mưa như trút nước. Những hạt mưa to bằng hạt đậu gõ lên nóc xe, đập vào vách xe, Khương Trầm Ngư nhìn bầu trời mờ mịt, không kìm được hỏi: “Bây giờ là mấy giờ?”.
“Nàng không biết?”. Hách Dịch vừa cười vừa nhìn nàng, cũng không úp mở, đáp: “Bây giờ là giờ Tị”. Thấy Khương Trầm Ngư sững người, lại bổ sung: “Mùng ba tháng sáu”.
Khương Trầm Ngư kinh ngạc kêu lên: “Cái gì? Cũng có nghĩa là…”.
“Cũng có nghĩa là chiều hôm qua nàng vào phủ tam hoàng tử, cả đêm không về. Sư huynh nàng trong lòng lo lắng, đúng lúc ta đến chỗ hắn nhờ chữa trị, hắn bèn nhờ ta ra mặt đón nàng”.
Khương Trầm Ngư không ngờ nàng hôn mê một đêm, lúc mới tỉnh dậy, nàng còn tưởng cùng lắm mình chỉ ngủ hai canh giờ. Cũng chẳng trách bọn Giang Vãn Y lo lắng. Có điều, coi như hắn thông minh, cũng biết đường nhờ Nghi vương ra mặt đón người.
Ngước mắt, thấy Hách Dịch cười có vẻ mờ ám, liền tức tối hỏi: “Bệ hạ cười kiểu gì thế?”.
Hách Dịch ho mấy tiếng, thong thả nói: “Nàng… có biết bộ dạng của mình bây giờ không?”.
“Bộ dạng? Bộ dạng gì chứ?”
Thấy nàng không hiểu, Hách Dịch đảo mắt, định nói gì đó nhưng cuối cùng lại thôi, chỉ mò ra một chiếc khay đồng đưa cho nàng.
Khương Trầm Ngư không hiểu nhưng vẫn nhận chiếc khay, mặt sau chiếc khay được mài nhẵn bóng, giống như một chiếc gương đồng, phản chiếu hình dáng của nàng lúc này: Mái tóc rối bời, hai mắt sưng húp, bờ môi nhợt nhạt, lại thêm áo quần nhàu nhĩ, nhìn giống như vừa bị chà đạp, lại cả đêm không về…
Mặt nàng đỏ lựng lên, cuối cùng đã biết vì sao Hách Dịch cười ám muội đến thế.
Cạch, chiếc khay bị úp xuống, Khương Trầm Ngư ngước mắt lên, nhìn Hách Dịch chằm chằm, Hách Dịch nhướn mày, lại cười tủm tỉm với nàng. Không biết vì sao, rõ ràng y không cười trêu ghẹo cũng không cười chế nhạo nàng, nhưng nàng vẫn cảm thấy thấp thỏm, không nhịn được phân bua: “Sự tình không như bệ hạ nghĩ đâu!”.
“Ta nghĩ những gì, nàng làm sao biết được?”.
“Tiểu nữ với Di, Di Phi không xảy ra bất cứ chuyện gì”.
“Ta biết”. Hách Dịch ngừng lại, nói thêm: “Di Phi tuy tiếng xấu đồn xa, nhưng không đến nỗi cưỡng bức thiếu nữ”.
“Vậy sao bệ hạ cười như thế?”.
Hách Dịch thở dài: “Oan uổng quá đại tiểu thư ơi, ta luôn cười như thế mà”.
Tuy biết lời y nói là sự thực, người này xưa nay luôn cười vẻ mờ ám, nhưng lúc này nhìn điệu cười đó, không khỏi cảm thấy chướng mắt, nàng sa sầm mặt, nói: “Không cho ngài cười nữa!”.
Hách Dịch hơi ngẩn ra, nụ cười trong mắt càng đậm hơn.
Khương Trầm Ngư giận dữ nói: “Ngài còn cười, ngài ngài…”, dư quang nơi khóe mắt nhìn thấy bên ngoài hình như là một khu chợ, liền lập tức kêu to: “Dừng xe! Dừng xe cho ta!”.
Xe ngựa lập tức dừng lại.
Nàng mở cửa xe bước xuống, cũng không để ý Hách Dịch nghĩ gì, đội mưa tiến vào một cửa hàng trong chợ.
Đây là một hiệu bán tơ lụa, đoạn nhiễu, nàng vừa vào cửa đã có người của cửa hàng chào mời đon đả: “Cô nương, mua chút gì nhé?”. Vừa nói đôi mắt vừa đảo một vòng nhìn khắp người nàng.
Khương Trầm Ngư chỉnh lại y phục, nói: “Nhìn cái gì? Lấy y phục tốt nhất ở đây ra cho ta xem”.
“Vâng vâng”. Miệng gã vâng dạ, nhưng chân vẫn không nhúc nhích, nghi hoặc hỏi: “Cô nương… này, chỗ chúng tôi tiền trao cháo múc, không bán chịu… cô… có mang theo bạc không?” Gã nhắc nhở thế, bấy giờ nàng mới nhớ ra từ lúc đi sứ đến giờ trên người không mang theo lạng bạc nào, đang lúc khó xử, một giọng nói uể oải vang lên sau lưng: “Cô nương này muốn gì cũng đem hết ra đây”.
Nàng quay đầu lại, chỉ thấy Hách Dịch không biết đã vào cửa hiệu từ lúc nào, y đang đứng dựa cửa, hai tay khoanh trước ngực, tươi cười nhìn nàng.
Chưởng quầy vốn cúi đầu tính toán sổ sách trên tủ quầy ngẩng đầu lên trông thấy Hách Dịch, mặt chợt biến sắc, vội vàng bước tới, nhấc vạt áo, chuẩn bị bái lạy thì bị Hách Dịch ngăn lại: “Đang ở nước ngoài, mấy cái lễ tiết rườm rà đó miễn đi”.
“Vâng”. Chưởng quầy cung kính vâng lời, quay sang mắng gã bán hàng: “Còn ngẩn ra đó làm gì? Không mau đi lấy y phục đẹp nhất trong hiệu ra cho cô nương này chọn?”.
Gã vội vã vào trong, không lâu sau liền ôm một đống y phục ra, bày ra trước mặt Khương Trầm Ngư với vẻ nịnh nọt lấy lòng: “Mời cô nương xem, có bộ nào vừa ý không?”.
Khương Trầm Ngư quay đầu nhìn Hách Dịch, Hách Dịch nhướng mày, đưa tay làm tư thế mời với nàng. Nàng cũng không từ chối, chọn lấy một bộ tương đối vừa mắt trong đó rồi đi vào phòng trong để thay đồ.
Khi thay áo xong mới phát hiện, hóa ra mình đã vô thức lấy bộ đồ váy dài bằng lụa sa trắng và một chiếc áo ngoài màu tím nhạt. Kiểu dáng, màu sắc đều rất giống bộ nàng đã mặc lần đến Hồng viên gặpCơ Anh trước đây.
Trong gương đồng phản chiếu một thiếu nữ eo Sở tóc Vệ, mày ngài mắt sáng, không khác gì so với hai tháng trước đây, thế nhưng, giờ đây thần sắc nàng tiều tụy, vết sẹo vẫn còn trên gò má, làm sao sánh được với vẻ kiều diễm, không thua gì quốc sắc trước đây.
Khương Trầm Ngư giơ ngón tay ra, nhẹ nhàng mân mê vết sẹo đó tuy biết là giả, nhưng vẫn hơi ngơ ngẩn. Nàng không kìm được nghĩ: “Không biết bây giờ công tử có khỏe không? Chắc chắn chàng sẽ không nhớ nàng, chỉ mong sao khi bồ câu mang tin từ đây về, khi lướt qua cái tên của nàng, ánh mắt chàng dừng lại một chút là đủ rồi. Trong lòng buồn bã, cơn giận và nỗi xấu hổ liền biến mất không còn tăm tích, trái tim bồn chồn chùng xuống bình tĩnh lại.
Nàng buộc tóc gọn lên, bước ra ngoài, Hách Dịch vẫn đợi ngoài cửa, thấy nàng đi ra, mắt y sáng lên, cười nói: “Bộ y phục này quả nhiên rất hợp với nàng”.
“Về đến dịch trạm, tiểu nữ sẽ trả bạc cho bệ hạ”.
“Không cần”. Hách Dịch cười cười, “Dù là thương nhân bủn xỉn hơn nữa, khi gặp được vị khách hiếm có, thi thoảng cũng nên tặng miễn phí một lần”.
“Vậy thì có thể tặng cho tiểu nữ thêm một chiếc ô không?”.
Gã bán hàng bên cạnh lúc này rất nhanh ý, lập tức lấy ra một chiếc ô.
Khương Trầm Ngư cầm lấy, xòe ô, bước ra ngoài. Hách Dịch ngạc nhiên hỏi: “Nàng không định lên xe sao?”.
Khương Trầm Ngư đi tới bên chiếc xe ngựa đậu ở ngoài cửa, rồi quay người lại, mỉm cười đẹp: “Hẵng còn sớm, tiểu nữ muốn đi dạo”.
Hách Dịch nghiêng đầu, gương mặt không bộc lộ điều gì.
Khương Trầm Ngư cứ đi cứ đi, nghe thấy phía sau loáng thoáng có tiếng bước chân, nàng quay đầu lại thì thấy Hách Dịch.
Không đợi nàng hỏi, Hách Dịch đã nói: “Không phải ta đi theo nàng. Nàng tùy ý đi dạo, còn ta cũng tùy ý đi thị sát một chuyến”.
Khóe môi Khương Trầm Ngư hơi nhếch lên, nhìn cửa hiệu san sát hai bên đường, không nhịn được, nói: “Bệ hạ muốn nói những cửa hiệu này đều là do bệ hạ mở đúng không?”.
“Đính chính ba điểm. Thứ nhất, không phải là những cửa hiệu này mà là trên con phố này, từ cửa hiệu đầu tiên cho đến cửa hiệu cuối cùng đều là của ta; thứ hai, tuy là của ta nhưng không phải do ta mở, chủ hiệu đều là người khác, ta chẳng qua chỉ phụ trách thu chút lợi nhuận mà thôi; thứ ba…”.
“Thứ ba…?”.
Hách Dịch chớp chớp mắt: “Thực ra ta vốn không muốn khoe khoang, chỉ là nàng hỏi, nếu không trả lời thì có vẻ không thực thà. Cho nên, ta cũng đành cho nàng biết ta giàu có đến mức nào”.
“Sau khi ta khoe khoang tài lực hùng hậu như thế với nàng, lẽ nào nàng không hề động lòng chút nào sao?”.
Trái tim Khương Trầm Ngư giật thót một cái, lại quay đầu nhìn Hách Dịch, thấy trên mặt y vẫn là điệu cười mờ ám, lười biếng mọi khi, nhưng trong đôi mắt đen láy sáng lấp lánh lại có một sự chân thành hiếm thấy, chỉ có điều, nó chỉ lóe lên trong giây lát rồi lập tức bị thứ cảm xúc khác thay thế: “Ta tốt hơn gã sư huynh bần hàn của nàng nhiều, đúng không?”.
Khương Trầm Ngư cười nhạt, tiếp tục đi về phía trước, vừa đi vừa nói: “Rõ ràng bệ hạ biết, tiểu nữ và sư huynh… không phải quan hệ đó”.
“Đương nhiên ta biết…”, không biết có phải vì tiếng mưa gió hơi ồn ào, câu nói này của Hách Dịch mơ hồ đến mức gần như không nghe rõ.
Trái tim Khương Trầm Ngư lại giật thót thêm lần nữa, giống như bị thứ gì chộp lấy, dần dần rơi xuống. Nàng mím môi, nắm chặt cán ô, hít vào thật sâu, mới nói tiếp: “Bệ hạ, ngài đoán ra thân phận của tiểu nữ chưa?”.
Phía sau im lặng, khi nàng cho rằng Hách Dịch sẽ không trả lời, Hách Dịch lại đáp: “Nếu chưa thì sao?”.
“Nếu bệ hạ đoán ra thì nên ghìm cương trước vực thẳm, tránh lún sâu đầm lầy…”. Lời còn chưa dứt, cánh tay nàng bỗng bị tóm chặt, người bị xoay lại, đồng thời, tay kia của Hách Dịch đè lên tay nàng, cùng cầm cán ô.
Nàng ngẩng đầu lên, nhìn thấy dưới đôi mày nhếch lên, đôi mắt không hề có ý cười.
Trong đồng tử sâu thăm thẳm đó phản chiếu bóng dáng của nàng, bóng trùng lên bóng, dường như không có điểm cuối.
“Tiểu Ngu…”, Hách Dịch gọi nàng bằng một cách gọi y chưa từng dùng, mỗi tiếng đều giống như đã được tôi luyện trong lò lửa, khi nói ra, vang lên đầy khí thế, “Khi nghe nói nàng đến phủ Di Phi cả đêm chưa về… ta rất lo lắng”.
Gió bỗng nổi lớn, mưa buốt lạnh lẽo.
Chỉ có giọng nói của Hách Dịch truyền vào tai nàng vô cùng rõ ràng… “Ta rất lo lắng, cho nên, ta chủ động đến phủ Di Phi tìm nàng”. Thế sự thần kỳ biết bao.
Khương Trầm Ngư không kìm được nghĩ, người trước mắt nàng, nam nhân này, đấng cửu ngũ chi tôn(2) này hoàn toàn không biết nàng là ai, không biết nàng trưởng thành ra sao, không biết nàng đã trải qua những chuyện gì, thậm chí không biết tính cách thực sự của nàng, nhưng lại thích nàng.
Còn nàng, rõ ràng chỉ cách y có nửa bước, nhưng dường như đang ở một nơi rất xa, rất xa, chăm chú nhìn một trận phong hoauyết nguyệt không liên quan đến mình – Điều này đáng sợ làm sao.
Được người ta thích vốn là một chuyện đáng vui mừng.
Nhưng nàng không kích động cũng chẳng cảm động, chỉ cảm thấy có chút sốt ruột, có chút xa cách, thậm chí có chút lo lắng.
Thế nên, Khương Trầm Ngư lên tiếng, trả lời một cách hết sức rõ ràng: “Tiểu nữ có chồng rồi”.
“Cái gì?”. Trên gương mặt Hách Dịch lộ vẻ kinh ngạc đúng như nàng đoán.
Khương Trầm Ngư chầm chậm rút tay ra khỏi tay y rồi ngước mắt, bình tĩnh lạ thường, nói: “Tuy nghe rất giống nói dối, nhưng đó vẫn là sự thực, bệ hạ, tiểu nữ đã là vợ người ta rồi”.
Vẻ mặt Hách Dịch thay đổi liên tục, đôi mắt càng sâu thẳm hơn, sáng rực đến lóa mắt: “Vậy thì, bỏ hắn đi”.
Xem ra, y thực sự không biết nàng là ai mới nói ra những lời ngang ngược như thế… Nàng bỗng thấy buồn cười, nhưng không hiểu vì sao, nụ cười dâng đến bên môi lại biến thành chua xót. “Chàng đã biết ta có chồng rồi…”. Khương Trầm Ngư cúi đầu, thở dài buồn bã, “Bệ hạ không ngại làm người tặng ngọc, nhưng biết làm sao, tiểu nữ chỉ có thể làm người trả ngọc…”.
Cánh tay nàng bị xiết chặt, nàng ngước mắt, thấy thần sắc Hách Dịch vô cùng kiên nghị: “Cho dù phiền phức đến cỡ nào, ta cũng có thể giải quyết”, y ngừng lại một lát, ngữ khí càng trang nghiêm hơn, “Trẫm là đế vương”.
Từ khi nàng biết Hách Dịch đến nay, đây là lần thứ ba y mở miệng xưng trẫm, lần thứ nhất là khi phong Giang Vãn Y là thiên hạ đệ nhất mỹ nhân; lần thứ hai là khi đối diện với mỹ nhân Di Phi hiến tặng, hai lần đều nói rất bỡn cợt, hàm ý trêu đùa.
Chỉ duy lần này, chém đinh chặt sắt, sự uy nghiêm và quyền thế của hoàng tộc trong nháy mắt đều phô bày đến tột đỉnh. Mắt Khương Trầm Ngư bỗng loang loáng lệ.
Trẫm là đế vương…
Trẫm… đế vương…
Bởi vì là đế vương, cho nên có quyền uy tối thượng, có thể muốn gì được nấy, có thể tùy ý thay đổi vận mệnh của người khác giẫm đạp lên cuộc đời của người khác! Nàng nhớ đến Họa Nguyệt vì thất tình mà chấp nhận sự sắp xếp của gia tộc, bước vào hoàng cung, nghĩ đến Tiết hoàng hậu vì gia tộc tuyệt diệt mà bị đày vào lãnh cung, nghĩ đến Tiết Thái từ trên mây xanh rơi xuống vũng bùn, nghĩ đến mình bị ép tiến cung lại vì bất đắc dĩ mà đi sứ Trình quốc… Uy quyền đế vương, nàng quả thực đã được lĩnh giáo quá nhiều rồi…
Tại sao những đế vương này đều cho rằng họ có thể dựa vào địa vị và thân phận của mình để có được tất cả?
Khương Trầm Ngư cười, cười đến méo xệch cả miệng, hai mắt rưng rưng, nhưng nước mắt vẫn chần chừ không chịu lăn xuống: “Đúng thế, bệ hạ… là đế vương”.
Bởi vì là đế vương, cho nên một hành động nhỏ cũng có thể ảnh hưởng đến toàn cục, vì vậy càng phải chú ý đến hoàn cảnh. Cướp vợ của người khác, sao tránh được miệng lưỡi thế gian, cho dù ngài bằng lòng, thần dân của ngài sao có thể cho phép?
Nàng nghĩ, ánh mắt nàng đã truyền đạt một cách rõ ràng những lời này, mà Hách Dịch cũng hiểu, bởi vì sự kiên nghị trên gương mặt y dần dần nhạt đi, thay vào đó là sự chần chừ đầy bi thương, sự giằng xé đầy bất lực, và cả sự cố chấp đầy kiên định.
Khương Trầm Ngư nhẹ nhàng đẩy cánh tay giữ chặt cánh tay phải của nàng ra, quay người.
Nhưng tay áo lại bị y tóm lấy.
Hách Dịch giơ ô trước mặt nàng, không nói thêm lời nào.
Khương Trầm Ngư cầm ô, tiếp tục bước đi, mưa vẫn rất to, chiếc váy đẫm nước, nặng nề dính lên đùi, mỗi bước đi đều rất khó khăn, nhưng nàng vẫn chầm chậm, từng bước từng bước, rất bình tĩnh cũng rất ngoan cố tiến về phía trước.
Cuộc đời này của mình rồi sẽ ra sao?
Giầy giẫm vào vũng nước, bắn lên vô số bọt nước.
Dẫu có trở thành mưu sĩ được coi trọng nhất của Chiêu Doãn thì sao nào? Bọt nước bắn tung tóe, làm ướt gấu váy nàng.
Mình còn có thể cử án tề my(3), sinh con đẻ cái? Có lương nhân hòa hợp, có hôn phu thương yêu?
Ánh mắt bi thương của mẫu thân như hiện lên trước mắt nàng, đăm đắm nhìn nàng.
Mình không hối hận, con đường này là tự mình chọn lựa, không trách được người khác. Mình chỉ là… mình chỉ là… Khương Trầm Ngư chầm chậm ngẩng đầu, nhìn bầu trời mây đen vần vũ, mưa lớn sầm sập, ánh mắt buông trôi xa vời vợi…
Không sai, nàng không hối hận. Nàng chỉ… cô độc.
Cô độc giống như một chiếc áo khoác trên người nàng, ngày thường như thể vô hình, nhưng mỗi khi tình cảm nồng ấm đến gần, lại như bị mưa thấm ướt như lúc này, trở nên nặng trình trịch, đè lên nàng, bức ép nàng, không có cách nào vứt bỏ, chỉ có thể âm thầm chịu đựng, đợi đến khi mưa tạnh, đợi đến lúc gió hong khô.
Khương Trầm Ngư nhìn bầu trời, hít một hơi thật sâu, sau đó nhắm mắt lại, lại thở một hơi thật dài, khi mở mắt ra, vẻ mặt bình thường trở lại, rồi vừa đi về phía trước vừa lạnh nhạt nói: “Có cần bước ra, nói chuyện với ta một lát không?”.
Trong màn mưa, một bóng người xoẹt qua, xuất hiện không một tiếng động. “Tại sao chỉ có mình ngươi?”.
Ám vệ im lặng một lúc mới đáp: “Di Sinh thất thủ, bị Tùng Trúc bắt”.
Khương Trầm Ngư hơi cau mày, thực ra, khi Di Phi nói toạc ra rằng bên nàng còn có ám vệ đi theo nàng đã biết trong thời gian nàng hôn mê, hai bên nhất định đã xảy ra xung đột, đương trầm ngâm, ám vệ lại tiếp: “Xin chủ nhân yên tâm, Di Sinh đã uống thuốc độc tự tận”.
Cánh tay Khương Trầm Ngư run run, chiếc ô liền nghiêng đi, nàng vội vàng giữ chặt ô, quay lại nhìn tên ám vệ đó.
Trong màn mưa xối xả, người đó tuy đứng rất gần nhưng nhìn không rõ ràng, ngũ quan dung mạo, thậm chí thân hình đều trở nên mơ hồ, nhìn qua cũng không nhớ nổi.
Phụ thân từng nói, ngoại hình bình thường là điều kiện tiên quyết của một ám vệ, một ám vệ càng xuất sắc, cảm giác tồn tại càng thấp.
Vì thế, sau khi Chiêu Doãn ban hai người này cho nàng, cho dù từng gặp họ vài lần, nhưng khi nàng muốn nhớ lại hình dáng của tên ám vệ kia lại không nhớ ra nổi.
Người đó vì cứu nàng mà không tiếc cả tính mạng của mình, còn nàng thậm chí không nhớ nổi dáng hình của y.
Còn người trước mặt liệu đến một lúc nào đó có vì nàng sơ suất mà sẽ phải chết không?
Trong lòng Trầm Ngư hổ thẹn, tay xiết thành nắm đấm rồi lại run run thả lỏng, nhẹ nhàng đặt lên vai đối phương: “Hắn tên là Di Sinh, vậy còn ngươi, tên là gì?”.
“Hồi bẩm chủ nhân, thuộc hạ tên là Sư Tẩu”.
Mưa tầm tã, ám vệ ướt như chuột lột, không hề nhúc nhích nhưng dưới đầu ngón tay truyền đến tiếng tim đập thình thịch, còn mang theo cả hơi ấm của hắn. Khương Trầm Ngư cứ nhìn hắn mãi như thế, cho đến khi hắn ngẩng đầu lên vì mãi không thấy nàng nói gì.
Khoảnh khắc ánh mắt gặp nhau, Khương Trầm Ngư lên tiếng: “Sư Tẩu, ta ra một mệnh lệnh mới cho ngươi – tiếp tục sống”.
Ánh mắt Sư Tẩu khẽ run rẩy.
“Cho dù gặp phải tình cảnh gì, cho dù thất thủ bị bắt, cho dù bị nghiêm hình bức cung, đều phải tiếp tục sống cho ta”.
Nàng nói xong quay đầu nhìn về phía một đầm nước cách đó không xa, thần tình lạnh lùng nhưng lại toát lên một khí độ thần thánh mà cao quý, “Tiếp tục sống, sau đó, ta sẽ cứu ngươi, sẽ nghĩ hết mọi cách để cứu ngươi”.
Trên gương mặt mơ hồ của Sư Tẩu cuối cùng đã xuất hiện một thần sắc – thần sắc thuộc về con người – có chút hoang mang, có chút hoảng loạn, lại có chút lúng túng không biết phải làm sao, sau cùng, hòa trộn thành cảm động.
Hắn khuỵu gối, quỳ xuống: “Vâng, thưa chủ nhân”.
Trong đầm trồng mấy cụm hoa sen, một nụ sen mơn mởn đâm lên, có lẽ sau cơn mưa sẽ bung cánh khoe sắc. Giống như giờ này phút này, trong cơn mưa, phía sau lưng có một người bắt đầu đi chệch khỏi con đường số phận ban đầu, giành được một cuộc đời mới theo một ý nghĩa nào đó.
Trên thế gian này, kỳ thực mỗi con người đều rất cô độc. Cô độc theo đủ mọi cách thức, mọi phút mọi giây.
Chiếc áo cô độc cưỡng bức chụp lên cơ thể mỗi người, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, hễ khi tâm hồn yếu đuối, liền bị nó từ từ nuốt gọn.
Ý nghĩa của sinh mệnh là làm thế nào có được hạnh phúc.
Cho dù đời này đã bị đóng dấu nung tù nhân thì có làm sao? Cho dù nàng thân là đế phi không được bên người mình yêu thì có làm sao? Cho dù nàng gánh trọng trách quốc gia trên tấm thân yếu đuối thì có làm sao? Cho dù tương lai nàng không có con cái thì có làm sao? Phút này, nàng đang sống, nàng đang tắm mưa của trời cao, nàng đang hít thở càn khôn, nàng biết vui, biết giận, biết lo lắng, biết sợ hãi, nàng rõ ràng đang tồn tại một cách sống động, tại sao phải từ bỏ? Dựa vào cái gì mà từ bỏ?
Vì một mục đích nào đó mà cố gắng, dốc hết toàn lực, bản thân quá trình này đã có ý nghĩa rồi. Huống hồ, trong quá trình này, nàng còn có thể thay đổi người khác, cứu vớt người khác, khiến cuộc đời của người khác không còn đen tối.
“Công tử không thích ta, nhưng sẽ có người khác thích ta;
Không thể được ở bên người khác, nhưng sẽ được họ thích;
Nhìn tưởng như giành lấy cơ hội được vượt lên đứng trên những kẻ khác, nhưng nếu thực sự có thể khiến quốc gia giàu mạnh, bách tính an khang, tình thế thái bình, phụ mẫu an lòng, như thế… cũng là hạnh phúc tột đỉnh rồi.
Tại sao ta phải lo lắng, bi thương.
Bây giờ ta đã có người bạn đầu tiên có thể giao phó tính mạng, tương lai sẽ có người thứ hai, người thứ ba, rất nhiều người nữa. Khi chúng ta bên nhau, có thể thực hiện rất nhiều rất nhiều việc. Cuộc đời dài như thế, sao ta lại nghĩ đến nỗi cô độc, sống hoài sống phí, nghĩ đến sự vô vọng, tự tận?
Vận mệnh không nằm trên hạt châu có độc, không nằm trong thánh chỉ của đế vương.
Nó nằm trong tay ta”.
Khương Trầm Ngư lấy hạt châu độc từ trên tai trái xuống, ném thật mạnh, hạt châu lượn một đường cong dài, rơi “tõm” xuống đầm, nước bắn lên, nhanh chóng biến mất trong sóng nước lăn tăn.
Sư Tẩu kinh ngạc nhìn nàng, theo nàng như hình với bóng hơn một tháng nay, hắn đương nhiên biết được mức độ quan trọng của hạt châu đó, cũng tận mắt chứng kiến nàng từng vì nó mà không ngần ngại nhảy xuống hồ, nhưng bây giờ, nàng lại kiên quyết ném nó xuống đầm nước.
Gió táp mưa sa vào bộ đồ váy trắng áo tím của nàng, thổi tung mái tóc nàng, nàng nhỏ bé yếu đuối là thế, nhưng không một cơn gió nào trên thế gian này có thể quật ngã được nàng.
Gấm trắng không vân hương rực rỡ, ngọc thụ quỳnh hoa chất tuyết sương.
Vạn vật hỗn loạn ai tin đạo, không cùng một hội với quần phương(4).
Đó rõ ràng là một cây hoa lê bừng nở giữa hồng trần.
Quật cường mà mỹ lệ.
Ghi chú: (1) Bản chỉ là dụng cụ dùng để bảo vệ ngón tay khi bắn tên thời xưa.
(2) Cửu ngũ chi tôn: Hào 95 trong quẻ Càn, sách Chu dịch, tượng trưng cho đế vương, sau nhân thế gọi vua là cửu ngũ, cũng gọi là tôn cư cửu ngũ.
(3) Điển cố Lương Hồng đời Hán, vợ là Mạnh Quang, mỗi bữa cơm, vợ phải bưng mâm ngang mày để tỏ ý cung kính. Câu thành ngữ này ý nói vợ chồng tôn kính lẫn nhau, vô cùng ân ái.
(4) Đây là bài từ “Vô tục niệm” của Khưu Xử Cơ, một đạo nhân phái Toàn Chân. Ý chính của hai câu thơ này là: Câu đầu miêu tả vẻ đẹp của hoa lê câu thứ hai nói lên chí khí thanh cao thoát tục, không cùng hội cùng thuyền với những loài hoa khác. Bề ngoài là vịnh hoa lê nhưng thực chất tác giả dùng hoa lê để nói lên chí khí cúa bản thân mình.