Trạm quân y tiền phương của F3 đặt trong 1 eo núi hẹp, 2 bên là vách đá lởm chởm. Mấy chiếc lán làm tạm khung sắt, mái bạt, kiểu nhà dã chiến của bộ đội o xạ. Từ quốc lộ vào có 1 đường mòn ngoằn ngoèo ô tô có thể đi được, chạy gần như song song với 1 dòng suối nhỏ nước trong vắt. Tôi được chuyển về đấy từ 6 giờ sáng và lúc này là 9 giờ (ngày 2-3-1979). Tôi tìm lối ra suối tắm giặt. Mặt trrời đã nhô cao nhưng sương mù vẫn lởn vởn bay ngang sườn núi. Phía đầu nhà trực ban, 1 chiếc ô tô cứu thương sơn màu xanh lá cây đang rú máy. Cạnh đấy có mấy đồng chí quân y đang đứng, chốc chốc lại quay lại nhìn vào phía lán như ngóng ai. Tôi vừa bước ra khỏi đoạn hào cách chiếc ô tô khoảng 5m thì cũng từ 1 ngách hào gần đó, 1 thương binh bị vào chân trái chống nạng tập tễnh bước ra. Gần như cả 2 chúng tôi cùng ngước nhìn nhau và cùng kêu lên :
- Hùng !
- Phi-ao !
Hùng nhào tới,, 2 chúng tôi ôm chầm lấy nhau. Nghẹn ngào không nói được lời nào. Mấy lần tôi định hỏi sao Hùng lại có thể sống mà trở về được tới đây nhưng cứ định nói thì cổ lại nghẹn tắc, nước mắt cứ trào ra. Hùng cũng thế, mấy lần định hỏi tôi câu gì đó mà không sao nói được. Còi ô tô lại réo lên vẻ cáu gắt. Hùng giơ tay chỉ xuống phía đó, tôi ghé vai dìu Hùng đi.
Cửa đóng sầm lại, xe rú máy rồi bò nhanh. Hùng cố thò cổ ra, ngoái lại giờ tay vẫy tôi. Còn tôi cứ đứng lặng đi ở đó mãi, tay vẫy, mắt nhìn hút theo chiếc ô tô cho đến khi nó khuất vào sau một mỏm đá trước mặt, lòng xốn xang buồn vui lẫn lộn.
Tôi ngồi xuống hòn đá bên bờ suối, nhìn ra phía chân trời xa, ở đó tiếng trọng pháo vẫn nổ cấp tập từng đợt. Và trước mắt tôi hình ảnh cuộc chiến đấu lại hiện ra rất rõ nét.
Phía tây nam thị trấn Đồng Đăng cách Hữu Nghị quan khoảng gần 3 cây số có 1 pháo đài rất kiên cố được xây dựng từ thời Pháp. Pháo đài hình bầu dục, tường dày 2m, có 3 tầng, mỗi tầng lại được ngăn thành 4 ô vuông thông nhau bằng 1 cửa nhỏ và từ tầng nọ lên tầng kia có cầu thang xây nhiều bậc. Đó là 1 công trình quân sự kiên cố đúc bằng bê tông cốt thép. Toàn bộ pháo đài được đặt sâu trong lòng đất trên ngọn 1 quả đồi. Từ xa nhìn đến chỉ thấy cây cỏ bao phủ thành 1 lớp màu xanh thẫm. Đến tận nơi mới phát hiện 2 cửa, nói đúng hơn là 2 đường hầm. Cửa phía bắc dài khoảng 1m dẫn vào tầng thứ nhất. Cửa phía nam dài tới 20m dẫn vào tầng thứ 2. Đây là vị trí phòng ngự rất quan trọng bởi nó án ngữ đầu mối giao thông cả đường bộ và đường sắt chạy sang Trung Quốc. Tầng thứ nhất do 2 tiểu đội bộ đội thuộc F3 chốt giữ và tầng thứ 2 do đồn công an vũ trang C5 chúng tôi đảm nhiệm. Cố nhiên trong chiến đấu chúng tôi đều có phương án hợp đồng với nhau.
5h30 ngày 17-2-1979, pháo các cỡ đặt từ đất Trung Quốc đien cuồng nã đạn sang pháo đài và nhiều nơi thuộc khu vực đồn chúng tôi phụ trách. Lập tức cả đơn vị triển khai theo đội hình chiến đấu. 7 giờ, bọn Trung QUốc xâm lược tập trung 1 sư đoàn có xe tăng dẫn đầu hùng hổ vượt qua mốc 16 tràn vào lãnh thổ nước ta. Chúng chia làm 2 mũi. Mũi thứ nhất có 6 xe tăng thọc sâu tấn công chúng tôi từ bên trái và phía sau. Mũi thứ 2 theo đường 1B tới gần ga Đồng Đăng rồi vòng đánh vào bên phải. Xe tăng tiến tới đâu, bộ binh lớp lớp đông như kiến tiến theo tới đấy. Đương đầu với đội quân xâm lược khổng lồ có xe tăng và pháo binh yểm hộ, chúng tôi chỉ có ngót 100 tay súng. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt. Bọn Trung Quốc xâm lược tấn công hòng chiếm pháo đài nhưng lần nào chúng cũng bị chúng tôi đánh bật trở lại. Suốt từ sáng sớm ngày 17-2 đến hết ngày 22-2, địch vẫn không thể nào xoay chuyển được tình thế. 6 ngày đêm đánh nhau liên tục, khắp nơi ngổn ngang xác giặc, mặt đất bị cày xới, khói bụi mù mịt. Mùi khét của thuốc đnạ, của nàh cửa và cây cối cháy, mùi hôi thối tanh tưởi của xác chết xông lên rất khó chịu.
Sáng sớm ngày 23-2-1979, địch tăng cường thêm xe tăng và quân tiếp viện, sau gần 1 giờ tập trung nhiều cỡ pháo nã đnạ cấp tập xuống pháo đài và trận địa chúng tôi, từng đoàn xe tăng và nấp sau là bộ binh địch ào ạt tràn lên theo tiếng kèn trận hối hả và dưới sự thúc ép của những tên chỉ huy tàn ác, hèn nhát đứng ở phía sau sẵn sàng bắn chết bất kì tên lính nào chậm chạp. Sau 1 tuần lễ chiến đấu ở vào tình thế bất lợi, tuy thế chúng tôi rất vững vàng trụ chắc ngoài chiến hào, đợi địch đến thật gần mới nổ súng.
Cánh trái, bấy giờ chỉ còn tôi, Bái, Kết và Phong. Chiến hào bị đạn xuyên từ xe tăng bắn vào phá hủy, nhiều đoạn đất đá lập đầy. Trước mặt, cách tôi độ hơn trăm mét, 1 chiếc xe tăng bò lên. Tới gần một mô đá nó chững lại. Nắp xe bật mở, 1 tên chui ra đứng bên tháp pháo vung tay hò hét kêu gào bọn bộ binh xung phong. Rê nòng khẩu trung liên, lấy điểm xạ thậtc hính xác, tôi xiết cò cho đi 3 viên đạn. Lập tức tên chỉ huy hung hãn đứng trên xe tăng lộn cổ xuống. Chiếc xe dừng hẳn, xoay nòng pháo về phía tôi. Tôi luồn hào di chuyển vị trí rồi tới tấp nã đạn vào bọn bộ binh cùng với AK và thủ pháo của Bái, Kết, Phong. Địch chết gục nằm la liệt. Những tên đi sau vẫn bị chỉ huy thúc ép đạp qua xác đồng bọn xông lên. 1 quả pháo nổ giữa đội hình, cả 3 đồng chí Kết, Phong, Bái đều bị thương. Tôi chưa kịp nhào tới cứu thì 2 quả pháo khác lại nổ trúng chỗ đó. Đất đá tung lên phủ kín tất cả. Khói đạn pháo vừa tan đã thấy 4, 5 tên Trung QUốc nhày vào chiến hào cách tôi 3, 4m. Không cần ngắm, tôi kẹp trung liên vào nách xiết cò. Cả 5 tên chết gục tại chỗ. Từ khắp nơi quanh pháo đài, địch tràn lên đông như kiến, chỉ thấy màu xanh của những bộ quân phục vải Tô Châu ùn ùn chuyển động. Chúng đã chiếm được nóc pháo đài, bốn năm tốp đang vội vã đặt đại liên quay về phía tôi.
Không thể trụ lại được ngoài chiến hào, tôi vừa bắn vừa lùi cho đến khi hết đạn. Còn quả lựu đnạ cuối cùng, tôi cầm tay, nếu chúng xông vào bắt sống, tôi sẽ giật chốt an toàn và ít ra cũng dăm bảy thằng cũng phải chết. Tới cửa pháo đài, tôi co chân đạp tấm gỗ dày lệch nghiêng. Tôi là người cuối cùng vào được đường hầm an toàn. Địch chiếm pháo đài, lúc đó khoảng hơn 5 giờ chiều*.
Đường hầm dẫn vào pháo đài tối quá, không nhìn thấy gì, 2 đồng chí đã vào trước ôm lấy tôi, sờ khắp người không tháy bị thương vội kéo đi. Mới bước được mấy mét địch đã xông tơi cửa hầm nhưng không đứa nào dám vào, chỉ quăng lựu đnạ và xả súng máy bắn xuống.
Lực lượng ta còn rất ít. Trong pháo đài lúc này ngoài chúng tôi còn có độ 50 đồng bào. Hầu hết là đàn bà trẻ em từ dưới thị trấn Đồng Đăng chạy lên tránh đnạ pháo từ sớm ngày 17. Đồng bào đã giúp chúng tôi nấu cơm, tiếp đnạ, săn sóc thương binh. Nhiều người ra chiến đấu cùng chúng tôi và hy sinh anh dũng. Vì đông người nên thức ăn thức uống dự trữ của chúng tôi đã sắp hết. Chỉ còn dăm cân mì sông và mấy lít nước cạn dưới đáy phi.
Trong pháo đài tối om và ngột ngạt vì hơi người, ầm ĩ tiếng trẻ con khóc lặng đi vì khát nước, khát sữa. Một đồng chí thương binh nào đó đau quá đã cố nén nhwung tiếng rên vẫn bật ra. Màu máu tanh tưởi, mùi phân, mùi nước giải hôi thối nồng nặc. Mệt quá, khát quá tôi ngồi dựa lưng vào 1 góc tường, đầu choáng, người ớn lạnh và buồn nôn vô cùng. Bỗng "Ầm...! ...Ầm!" 2 tiếng nổ khủng khiếp nối nhau. Pháo đài rung chuyển. Tiếp đó hàng chục, hàng trăm tiếng nổ chói tai rung óc. Hơi khói y sè, đen đặc cuồn cuộn ùa vào từng căn phòng trong pháo đài. Tiếng kêu nhốn nháo :
- Địch giật bộc phá lấp đường hầm rồi !
- Địch thả lựu đạn y các đồng chí ơi ! AI có khăn ướt thì đậy ngay lên mặt đi.
Một giọt nước uống còn không có, đào đâu ra khăn ướt. Tiếng trẻ con sặc sụa rồi lặng đi. Mấy đồng chí thương binh kêu rú lên, nấc nấc hai ba cái rồi lịm. Tôi bò sợ soạng lần về lỗ thông hơi để thở nhưng từ ngoài địch nhét lựu đạn y vào nổ choang choác. Quan ánh lửa tôi thấy đàn bà trẻ em nằm la liệt, co quắp, giãy giuạ. Một thứ khói gì rất lạ ộc vào họng cháy bỏng và lửa cháy bừng bừng. Địch phun hơi độc hoá học và phun xăng xuống đốt, tôi thoáng nghĩ rồi ngất lịm. Tỉnh dậy tôi thấy tức thở quá. Tiếng nổ vẫn ầm ầm. Máu ựa ra từ miệng, từ mũi, từ tai. Tôi bò đi sờ trong đống xác người nằm co quắp ấy xem có ai còn sống không. Tấ cả dường như đã chết. Tới 1 góc tường tôi sờ thấy 1 người còn sống. Qua giọng nói thều thào, yếu ớt tôi nhận ra Hùng. Hùng bị thương vào đùi máu ra nhiều nển ất mệt. May Hùng to, thể lực tốt, vết thương nhẹ ở phần mềm thôi, nếu không chắc đã chết. Lần sờ bò qua mấy xác chết không rõ của ai, chúng tôi tháy còn sống : Hà Văn Chiết, Bùi Duy Thanh, Nguyễn Đoan Hạnh, Trần Cường, Nguyễn Văn Năm, Phạm Văn Chiến và mấy đồng chí nữa. Họ nằm gục vào 1 góc tường ẩm ướt.
Mệt quá, tôi ngất lịm đi từ lúc nào. Khi tỉnh dậy thấy xung quanh im ắng một cách ghê sợ. Một cmả giác chết chóc, alnhj lẽo khiến tôi rùng mình. Không khí loãng ra, dễ thở hơn. Lúc này là ban ngày hay ban đêm ? Chúng tôi đã nằm trong pháo đài bao lâu rồi ? "Đoành !...Đoành !..." thỉnh thoảng địch mới lại thả xuống 1 quả lựu đạn y. Có lẽ chúng tôi đã hy sinh gần hết, chỉ cần giết nốt những ai còn ngắc ngoải bằng mấy quả lựu đạn. Tôi tỉnh hẳn, khẽ gọi :
- Có ai còn sống không ?
- Còn.
- Còn.
-...
Ba bốn người lên tiếng. Chúng tôi bò lại gần nhau. 13 đồng chí còn sống, trong đó có mình Hùng bị thương. Đồng chí Chiến là bí thư chi Đoàn và là người đảng viên duy nhất chủ trì cuộc họp. Bọn Trung Quốc xâm lược dã man trả thù bằng cách giết chúng tôi, hèn hạ hơn chúng bắt chúng tôi phải chết dần, chết mòn quằng quại trong đau đớn dưới đáy sâu tăm tối của pháo đài. Chúng tôi bàn nhau phải bằng mọi cách vượt ra, phải sống mà trở về để tố cáo tội ác này cho mọi người biết và để tiếp tục chiến đấu. Nhưng ra bằn cách nào ? Đường hầm bị phá sập, thành pháo đài lại dày. Chúng tôi quyết định khoét đất đá trong đường thông hơi chui ra. Đường thông hơi này lớn hơn tất cả xây bằng gạch nối từ đáy tầng cuối cùng của pháo đài (đường kính 60 phân dài khoảng hơn 30 thước) xuyên chéo trong lòng đất chui ra ngoài sườn đồi. Cửa đường ống đó được đặt trong 1 lô cốt tường cũng xây bằng gạch. Nhưng cái lô cốt này đã bị phá hủy từ khi phát xít Nhật đánh sang, bởi thế đất đá đã đổ xuống lấp kín. Chúng tôi quyết định đào thông và chui ra bằng lối đó, công việc thật vô cùng vất vả. Chúng tôi lần lượt thay nhau đào. Đường ống nhỏ, chỉ 1 người chui vào được, dùng mũi xẻng chọc gnược lên cho đất tơi ra, đùn qua dưỡi bụng, lấy 2 chân đạp đạp xuống. và những người khác lại dùng 2 tay cào cào đảy ra nền pháo đài. Đường hầm tối như bưng và ngột ngạt rất khó thở. Tôi đào. 2 cánh tay nhức buốt. Đầu đau nhói như có ai dùng dùi xoáy vào thái dương. Mệt muốn gục xuống, tôi vẫn cố. Cho tới khi tay không giữ nổi cán xẻng nữa, đầu nặng quá không sao cất lên được, tôi gục xuống ngất đi. Không biết anh em đã chui vào kéo tôi ra từ lúc nào. Tỉnh dậy tôi khát quá. Khát tơqí cháy cổ. Lưỡi cứng lại, khô rát. Không có tí nước bọt nào, muốn nói mà không sao nói được, chỉ ú ớ. Tôi sờ soạng mò tìm cái bát sắt hy vọng có chút nước nào anh em mới dè sẻn rót ra để dành cho chăng, nhưng chỉ thấy chiếc bát khô khốc. 5 cân mì sống và mấy lít nước chúng tôi dùng hết sức tằn tiện cốt đê cầm hơi, khỏi chết thôi, tới nay đã hết. Tôi bò tới 1 góc tường, ở đấy hơi người, hơi xác chết bốc lên đọng lại thành từng hạt nước li ti, chỉ đủ làm cho mặt ngoài của tường ẩm lạnh. Tôi cố há to miệng, thè lưỡi liếm những hạt nước li ti đó. Thật ra nước cũng chẳng đủ ướt đầu lưỡi nhưng dù sao nó cũng man mát làm cơn khát phần nào dịu lại. Tự nhiên cái sáng kiến ấy của tôi được anh em coi như một phát minh. Thế là lần lượt cứ sau một đợt chui vào ống moi đất, chui ra chúng tôi lại bò tới chỗ này đặt lưõi vào tường "uống khan" như thế. Xác đồng đội và đồng bào bị chúng giết hại đã lên mùi. Không có nới chôn cất, chúng tôi phân công 6 đồng chí tiếp tục đào đuwòng ống, còn lại chuyển tất cả thi hài của các tử sĩ và đồng bào ta lên tầng thứ nhất của pháo đài, sửa sang áo quần và tư thế nằm cho thoải mái. Nỗi đau đớn và thương xót đồng bào đồng chí, sự căm hờn đến cực độ trước hành động tàn ác của bọn Trung Quốc xâm lược khiến chúng tôi lặng đi, răng nghiến chặt, càng hun đúc trong lòng chúng tôi 1 quyết tâm sắt đá không gì chuyển nổi : phải sống, trở về đơn vị để tiếp tục chiến đấu, để bắt lũ giết người man rợ đó phải trả món nợ này.
Sức chúng tôi mỗi lúc một kiệt. 5 đồng chí gục xuống không còn gượng dậy được nữa chỉ nằm thoi thóp thở. Còn lại vẻn vẹn có 8 người : tôi, Chiết, Chanh, Hạnh, Cường, Năm, Dũng và Hùng. Hùng bị thương không chui vào đường ống được nhưng anh rất hăng hái, vui vẻ động viên chúng tôi. Hùng mới 22 tuổi, quê Hà Bắc, học dở lớp 9 anh tình nguyện đi bộ đội và được chuyển sang công an vũ trang. Khát nước khô cổ, giọng nói chỉ thều thào thôi, nhưng đôi khi Hùng vẫn hát cả một đoạn quan họ Bắc Ninh cho chúng tôi nghe. bài hát nói về một vùng quê đầm ấm, một cuộc hẹn hò trong đêm trăng. Tôi người dân tộc Nùng nhưng gia đình lại ở gần thị trấn nên được nghe, được đọc nhiều về các vùng quê trù phú miền xuôi.
Tôi mới lấy vợ. Vợ tôi yêu và thương tôi lắm. Nghe Hùng hát tôi nhớ vợ quá. Tôi nghĩ bụng phải sống, nhất định pjải sống để trở về đơn vị chiến đấu trả thù bọn xâm lược Trung Quốc rồi xin phép thủ trưởng Ý về với vợ mấy hôm. Tự nhiên tôi thấy khoẻ thêm, cứ lấy tay mà cào đất đá. Mặc dầu cả 10 đầu ngón tay đã toét ra, có ngón bật cả móng thế mà tôi chẳng thấy đau gì lắm.
Đêm ấy tôi mệt quá đang nằm thiếp đi thì thấy đồng chí Chiết khẽ lay lay gọi :
- Phi-ao ơi, đường ống thông rồi. Ra thôi !
Tôi sướng quá choàng dậy. Đường ống thông thật rồi ư ? Bây giờ nên thế nào ? Địch còn bao vây kín, phải bí mật mà ra, phải lợi dụng bóng đêm lừa chúng mà thoát. Tôi bàn để tôi và Hùng ra sau cùng, 6 đồng chí cứ ra trước đừng đợi nhau, ra đông dễ lộ. Đặc biệt phải nghe ngóng, thận trọng. Sau khi Chiết, Chanh, Hạnh, Cường, Năm và Dũng ra được rồi, tôi và Hùng mới ra. Chân trái đau Hùng bò rất khó khăn, tôi cứ phải từ phía sau đẩy anh nhoài từng tí "Cố lên Hùng ơi ! Cố lên sắp sống trở về rồi !". Tôi thì thào động viên Hùng, Hùng chỉ thở ì ạch không trả lời, tôi biết anh mệt và đau lắm. Cố nhoài, cố nhoài, cả 2 chúng tôi cùng mệt, thở như kéo bễ. Bỗng Hùng khẽ kêu lên :
- Đây rồi ! Chà...à...
Cùng lúc đó một luồng không khí mát lạnh ngọt ngào ùa vào mũi tôi. Sướng quá. Tôi dạng 2 chân vào thành cống giữ cho người chắc đẻ Hùng đạp chân phải vào đầu tôi, rướn người chui lên. Cố ! Cố tý nữa đi ! Đươc rồi. Hùng nằm vật bên miệng ống, thở.
- Không việc gì chứ ?
- Sống...rồi.
Hùng còn mệt không thể đi ngay được. Để cậu ấy nằm đó, tôi bò ngược vào pháo đài sờ lại xem có đồng chí nào còn sống thì đưa ra nốt. Tối quá, tôi lần tới từng góc sờ tìm nhưng không ai còn sống. Tôi đứng dựa vào tường bùi ngùi ứa nước mắt. Lòng đau thắt, cổ nghẹn tắc, tôi thì thầm : "Các đồng chí và đồng bào ở lại. Chúng tôi ra trước để trả thù. Rồi chúng tôi sẽ vào đưa các đồng chí và đồng bào ra sau".
Ra khỏi đường ống ngầm, tôi và Hùng nối nhau bò trường xuống chân đồi. Lúc ấy độ 12 giờ đêm. Lạnh, khát, vừa bò chúng tôi vừa há miệng hớp lấy những hạt sương li ti đọng trên ngọn cỏ, mắt nhìn khắp mọi phía, tai chăm chú nghe ngóng. Đó đây bập bùng dôi ba đống lửa cháy nơi bọn địch đang tụ tập giết lợn, mổ trâu và tranh nhau các thứ vừa cướp được. Chúng tôi bò ngoằn ngoèo tránh xác những tên giặc nằm ngổn ngang. Mùi tanh hôi xốc lên nôn nao, buồn nôn quá. Thì ra bọn Trung Quốc không những dã man với đồng bào ta mà ngay đối với đồng đội, chúng cũng chẳng thương xót gì. Bao nhiêu tư trang trong nguwòi những tên xấu số đã bị đồng bọn moi hết, còn xác chúng thì vẫn nằm phơi trên mảnh đất xa lạ đầy sỏi đá làm mồi cho ruồi bâu, quạ mổ và ròi bọ đục khoét. Đêm yên tĩnh hơn. Đôi khi dội lên vài tràng đại liên vu vơ hoặc mấy quả đạn pháo cỡ nhỏ. Tới 1 dòng suối, cả 2 đứa khoái quá, uống cho một chập thoả thích bõ những ngày khát cháy họng trong pháo đài, rồi lại bò đi. Gần sáng rồi, phải rẽ theo hướng nũi đá tìm chỗ lánh tạm. Khỏi cầu Pá Mật, tới rừng tre thưa, tôi kiếm cho Hùng 1 cây gậy thật chắc vừa để chống vừa để làm vũ khí. 2 đứa lại dìu nhau đi. Qua chân đồi gặp một mảnh vườn nhỏ còn mấy bụi sắn. Tôi nhổ lên được 4 củ. Mừng quá chúng tôi lau sạch đất dùng răng bóc vỏ rồi nhai liền. Chao ôi, sao mà ngon mà ngọt vậy, ăn đến đâu tỉnh táo và khoể ra đến đấy. Đến một khe đá, trên có nhiều bụi cây rậm rạp che khuất chúng tôi nằm đó nghỉ. Bấy giờ đã sáng rõ. Mặt trời nhợt nhạt ốm yếu nhô lên và sương mù tan dần. Tôi băng lại vết thương cho Hùng. Đạn xuyên qua đùi, mất nhiều máu da Hùng tái xanh và mệt mỏi lắm. Đặt Hùng nằm lọt vào giữa khe đá, tôi đứng dậy vén lá cây quan sát. Từ trên o tôi có thể nhìn rất rộng, rất xa. Cả một vùng dân cư bị tàn phá hết. Địch đông nghịt 2 bên đường 1B và lố nhố trên các đỉnh o xung quanh.
Chúng tôi nằm ôm nhau trong khe đá, cố ngủ lấy một giấc cho lại sức.
Đêm xuống, chúng tôi lại dìu nhau đi. Tới chân núi, thấy 1 cây chuối rừng gãy gục, tôi bóc hết bẹ lấy cái ruột nõn chia nhau. Đắng, chát quá không thể nào nuốt nổi, đành vứt đi rồi lại bò tiếp, vượt qua đường 1B xuống khu ruộng bậc thang.
Tưởng có thể lợi dụng địa hình o thấp khác nhau thì dễ tránh địch, nào ngờ cái chân của Hùng đau quá không đi nổi, cũng không bò nổi. Cứ một lúc cả 2 đứa lại trượt hẫng ngã lộn nhào từ trên o hàng mét xuống và Hùng cố nén chịu đau, ôm chân quằn quại. Một lần, 2 đứa vừa bò tới 1 góc bờ ruộng thì thấy 1, 2 rồi 3 bóng den đi tới. Địch hay ta ? 2 đứa nín thở nằm ép vào mô đất cạnh một bụi cỏ và nghe tiếng chúng nói xì xồ với nhau. À, tụi thám báo. Tên thứ 3 suýt đạp vào đầu tôi. Lúc đó tay tôi đã cầm sẵn quả lựu đạn-quả lựu đnạ tôi vẫn giữ từ trận đánh cuối cùng truwóc khi địch chiếm pháo đài-và Hùng nắm chắc đầu gậy sẵn sàng chiến đấu. Địch đi, chúng tôi lại bò, và lại ngã. Thấy đã khuya lắm rồi mà 2 đứa vẫn quanh quẩn trèo lên ngã xuống trong cái khu ruộng bậc thang lầy lội này, Hùng ôm lấy tôi giọng xúc động :
- Phi-ao ơi, Hùng không đi nổi đâu. Dắt díu nhau thế này cả 2 cùng chết. Phi-ao nhường cho Hùng quả lựu đạn, mình sẽ nằm lại đây, đợi sáng nếu bọn địch phát hiện hò nhau ra bắt sống, Hùng sẽ thí mạng cùng chúng nó. Còn Phi-ao cố tìm về đơn vị nói với các đồng chí trả thù cho anh em và đồng bào đã hy sinh.
Tôi ôm lấy Hùng, nghẹn ngào :
- Phi-ao không bỏ Hùng đâu. Nhất định thế. Cố lên Hùng ơi, ôm lấy cổ để Phi-ao cõng.
Giằng co mãi Hùng mới chịu để tôi dìu đi. Độ 2 giờ sau chúng tôi gặp một lối mòn. Lối mòn đó dẫn vào một bãi cỏ rộng, nhấp nhô những bụi cây sim, cây mua o ngang bắp chân. Đi tới gần giữa bãi chúng tôi mới nghe thấy tiếng người và nhiều bóng đen cựa quậy. Cả 2 cùng dừng lại. Ngay phía trái, cách chúng tôi chỉ hơn 1m, có 3 tên địch đang nằm ngửa. Phát hiện ra chúng tôi, 1 tên vùng dậy vớ lấy súng quát lớn :
- Xuẩy (Ai) ?
Lộ rồi, tiến thoái lưỡng nan, chỉ còn cách chiến đấu. Tôi nhảy chồm đến, đạp quả lựu đạn vào đầu nó. Nó kêu rống lên. Xung quanh tôi tất cả rùng rùng chuyển động. Tiếng kêu hốt hoảng lan đi. Những loạt súng nổ dài. Địch báo động, chạy tán loạn như đèn cù. Lợi dụng lúc nhốn nháo đó tôi vớ lấy chiếc mũ lưỡi trai của địch đội lên đầu và trà trộn vào đám hỗn quân hỗn quan ấy. Bắn loạn xạ một lúc, bọn chúng chửi bới nhau ầm ĩ rồi lại nằm lăn ra ngủ. Tôi cũng chọn một chỗ gần bụi cây mua, nằm xuống.
Độ hơn 1 giờ sau khi chúng đã ngủ say như chết tôi mới lặng lẽ lẻn đi, chỉ tiếc không xoáy được 1 khẩu súng nào vì khi ngủ chúng nó ôm chặt quá. Tôi quay lại tìm Hùng nhưng không thấy Hùng đâu. Bò hết bụi cây này sang bụi cây khác vẫn không thấy. Có lẽ Hùng bị nó bắt rồi chăng ? Hay Hùng đã hy sinh ? Liệu Hùng có thoát được không. Tôi vừa lo, vừa thương, nước mắt rưng rưng. Tôi bò về phía dãy núi đá phía tây. Tới chân núi thì trời sáng hẳn. Thấy phía trước có 1 ngôi nhà lá, tôi bò đến, may ra kiếm cái gì ăn được. Đói và mệt quá ròi. Bò tới nơi thấy cửa khoá, chủ nhà chắc đã chạy đi xa. 2 lần tôi định nâng cửa lách vào nhưng đắn đo alị thôi. Người Nùng chúng tôi coi chuyện ăn cắp xấu như giết trẻ con. Mà kỉ luật bộ đội cũng cấm không được lấy của dân. Tôi không muốn ăn cắp, bò trở ra, qua gian chuồng trâu bỏ trống tôi thấy có 3 cái ngọn mía non trâu ăn dở đã héo quắt nằm lẫn trong đám cỏ úa. Đói quá, thèm quá tôi nhặt, lau sạch đưa lên miệng nhai. Bỗng có bóng người. Tôi giật mình nhìn xuống thấy 3 tên lính Trung Quốc đang vẫy tay ra hiệu bắt sống tôi. Thì ra nó nhìn thấy và theo dõi tôi từ lâu. Vứt vội 2 ngọn mía, tôi vớ 1 hòn đá ném tới rồi co chân chạy theo 1 khe đá ngược lên núi. Địch tưởng lựu đạn nằm gục mặt xuống. Khi tôi chạy được một quãng chúng mới hò nhau đuổi. Chúng không bắn mà định bắt sống tôi. Vốn dân miền núi tôi chạy rất nhanh. Nhiều mỏm đá dốc và sắc nhọn, tôi bám chặt và nhún mình leo qua. May sao tới 1 cái hang nhỏ, tôi giả vờ rẽ ngoặt sang 1 mô đá phía trái nhưng lại bí mật chui tọt vào cửa hang nấp vào 1 hõm đá rất kín. Địch troè lên tới nơi thì mất hút tôi. Ngay lúc đó từng loạt đại liên từ quả núi bên cạnh nhằm 3 tên địch bắn tới. Chúng hốt hoảng kêu nhau tháo chạy. Tôi mừng quá. Đoán chắc có quân ta ở gần đây, tôi chui ra khỏi hốc đá bò tới 1 cái hang khác nằm thở. Vfa đêm ấy cứ theo hướng quả núi trước mặt tôi lần đi.
Độ 11 giờ khuya, nấp trong bụi cây tôi nghe có tiếng nói chuyện rồi 6, 7 người hiện ra. Họ đang khiêng cáng vật gì.
- Có phải bộ đội ta đấy không ?
- Bộ đội ta đây. Đồng chí là ai ?
- Tôi là công an trên pháo đài Đồng Đăng về đây.
- Pháo đài Đồng Đăng à ? Thật không ? Nghe nói bọn chúng phun hơi độc vào giết hết anh em và đồng bào ta rồi cơ mà ?
- Đúng. Chúng nó muốn giết nhưng chúng tôi không chịu chết.
1 đồng chí dừng lại bắt tay tôi. Thì ra nah em đi cáng tử sĩ của ta về chôn cất. Lòng tôi bỗng thấy ngùi ngùi khi nhớ tới các đồng chí của tôi, tới gần 50 đồng bào bị bọn xâm lược giết hại. Tôi nhớ 6 đồng chí ra trước và nhớ Hùng. Các đồng chí còn sống không ? Bây giờ ở đâu ? Một nỗi buồn thương bao trùm. Tôi im lặng bưóc đi.
1 giờ đêm hôm ấy chúng tôi về tới nơi đóng quân của đơn vị bộ đội và sau đó 2 giờ tôi được đi cùng với 30 thương binh về trạm quân y tiền phương của F3.
Và tình cờ tôi đã gặp hùng ở đây.
Vừa gặp đã chia tay. Thời gian ngắn ngủi quá chúng tôi không nói được gì với nhau. Tôi cũng không kịp hỏi Hùng đã thoát chết trở về bằng cách nào sau cái đêm lạc nhau ấy.
Xe ô tô đã chạy khuất từ lâu mà lòng tôi vẫn cồn cào xốn xang đầy xúc động.
------------------------
Đắc Trung, ghi theo lời kể của đồng chí Nông Thanh Phi-ao, dân tộc Nùng, chiến sĩ công an vũ trang đồn C5, Lạng Sơn.