Sáng sớm khí trời ấm áp, Xa Mị sai người đặt một chiếc bàn đá cẩm thạch nhỏ giữa vườn, ngồi một mình uống rượu, thỉnh thoảng tiện tay lật vài trang sách. Nắng mai nhẹ nhàng xuyên qua tán lá rọi đến chỗ nàng, phản chiếu trên chiếc bàn đá nhỏ, khiến gương mặt nàng như sáng rực lên.
Uống xong ba bình rượu, nàng đã ngà ngà say, lười nhác khoanh tay nằm xuống bàn lim dim ngủ như một con mèo nhỏ. Cuối thu lá rụng nhiều. Vàng xen lẫn đỏ, trải mênh mông khắp khu vườn rộng lớn, theo mỗi cơn gió bất chợt lại phát ra những âm thanh loạt xoạt. Xa Mị thích nghe tiếng lá rơi. Thứ âm thanh lặng lẽ, có chút cô đơn tịch mịch. Yên bình mà sống, yên bình mà chết, đó từng là mơ ước lớn nhất của đời nàng.Mùa thu năm nay mưa dai dẳng. Tối qua vừa mới mưa một trận, sáng ra được một hai canh giờ nắng ấm lại tiếp tục mưa, dù những cơn mưa ban ngày thường chỉ là mưa phùn, đôi khi còn chẳng đủ làm ướt áo.
Năm ấy, từng có một tên con trai cầm con mèo bằng đất sét chạy đến tẩm cung của nàng, mái tóc đen tuyền lấm tấm nước mưa, cười bảo: “Mưa phùn thế này thì có là gì. Tôi đã hứa đến gặp công chúa thì chắc chắn sẽ đến, dù có là mưa rào hay lốc xoáy.” Ánh mắt nồng nhiệt của hắn, nụ cười như ánh bình minh của hắn khiến nàng vốn quen lạnh nhạt cũng phải bật lên mấy tiếng: “Ai cần chứ!”
Ba năm, không ngắn không dài, nhưng đủ khiến nàng từ một người luôn sợ hãi, nghi ngờ thế giới xung quanh, luôn cố gắng đóng kín trái tim mình trở nên biết chờ mong, hy vọng, dù nàng thật ra cũng chẳng biết thế nào gọi là yêu. Hắn chỉ là một thư đồng, thân phận có hơi thấp một chút, nhưng nếu học hành đỗ đạt hay lập được chiến công nào đấy ở sa trường thì vẫn có cơ hội cưới nàng. Đến lúc đó, chỉ cần nàng chịu khó mở lòng một chút, chăm sóc hắn, đền đáp tình cảm chân thành của hắn, hai người sẽ có thể sống hạnh phúc bên nhau, tự do tự tại không lo nghĩ.
Sẽ có thể như lúc này đây, lắng nghe tiếng lá rơi mà chìm vào giấc ngủ. Nếu có thể ngủ và mãi mãi không tỉnh dậy nàng cũng không hối tiếc.
“Tỉnh dậy đi!” Một bàn tay lạnh ngắt khẽ chạm vào chiếc gò má ửng hồng vì rượu của nàng.
Nàng chán nản chép chép môi, mở mắt, ngẩng đầu lên, dần dần nhận ra bóng áo xanh trước mặt.
“Trời mưa sao không trở về phòng?”
Chắn giữa nàng và hắn là một lớp màn mưa mỏng, nên nàng không nhìn rõ được biểu cảm trong đôi mắt hắn.
Nàng đứng dậy, bước lại gần hắn thêm một bước, khiến hai lớp áo như sắp dính sát vào nhau: “Phò mã đang lo lắng cho ta?”
“Ai biết được trước mặt người khác cô có giả vờ bị ta bạc đãi đến nỗi phải đau khổ tự hành hạ bản thân không?”
“Ồ, ra là vậy.” Nàng gật gật đầu, sau đó lơ dễnh vuốt tóc, ngước lên mỉm cười dịu dàng nhìn gã.
Trái tim gã cứ như bị nụ cười ấy xoay đến chết đi sống lại. Không phải vì nàng quá đẹp, mà là vì trước đây gã từng vì nụ cười ấy mà mê mẩn, sinh ra thiện cảm, sau đó lại phát hiện bản chất đáng giận của nàng, sinh ra chán ghét, giờ lại có chút mơ mơ hồ hồ, nên những cảm giác ấy cùng lúc hoà vào nhau khiến gã vô cùng bức bối.
Gã đưa tay vuốt má nàng, nhưng đó lại không phải là một cử chỉ yêu thương.
Sau cái chạm tay của gã, một vệt đất sét màu nâu đỏ nhanh chóng xuất hiện trên gương mặt xinh đẹp của nàng. Nàng giơ tay lên sờ mặt, đôi chân mày cong cong chau lại. Gã nhếch môi cười, nhìn dung nhan xinh đẹp của nàng bị mình tàn phá mà không khỏi hả hê.
“Đồ trẻ con!” Nàng tỏ vẻ tức giận, nhưng sau đó lại nhón người đặt lên môi gã một nụ hôn.
Gã sững người như khúc gỗ.
Nàng thỏ thẻ: “Phò mã đang nặn tượng sao? Có thể tiện tay nặn cho ta một con mèo không?”
Thấy gã không có phản ứng, nàng lại lay lay vai gã: “Đi mà, đi mà phò mã!”
“Cô…” Gã ngần ngừ gỡ tay nàng ra.
Nàng ngước nhìn gã bằng đôi mắt long lanh.
“Cô… cô buông ra, ta đi nặn.”
Gã quay đi, bước một mạch ra khỏi khu vườn, trong lòng thầm mắng nàng: “Đồ yêu nữ!”, sau đó lại mắng mình: “Đồ ngốc!”
Xa Mị nhìn theo bóng lưng gã, khoé môi thấp thoáng nụ cười. Sau đó lại ngồi xuống ghế, gục xuống bàn, lắng nghe tiếng lá rơi xào xạc, tự thì thầm với chính mình:
“Hình như cũng không chọn lầm người.”
Gió thổi, một đợt lá nữa lại ào ạt lìa cành.
Nàng nhắm mắt.
“Có thể mãi như thế này đến tận lúc chết hay không nhỉ?”
…
Mồng sáu tháng mười, thái tử từ chiến trường tây nam chiến thắng trở về. Hoàng cung La Sa mở tiệc, tất cả hoàng thân quốc thích, đại thần, sứ giả đều được mời đến dự.
Rượu tuôn như suối, hoa nở thành rừng. Mấy năm nay vương quốc suy sụp, chinh chiến liên miên, nhưng tiệc tùng vẫn cứ xa hoa như vậy. Xa Mị nhìn bốn bề hoa lệ, nghe người người thốt lời đầu môi chót lưỡi ca ngợi nàng như nữ thánh mà cảm thấy chốn cung đình này thật đáng sợ, vật đổi sao dời mấy ai biết khi nào.
Ba năm trước, hoàng hậu và quý phi tranh giành ân sủng, bị quý phi điều tra rồi vạch trần âm mưu bắt cóc anh trai nàng năm ấy. Phụ vương nàng trước giờ hiếm muộn con trai nên sau khi chứng thực sự việc thì vô cùng tức giận. Hoàng hậu về sau bị phế truất rồi tống giam vào biệt viện, tình nghĩa vợ chồng hơn hai mươi năm tan thành mây khói.
Bà đỡ năm ấy là người theo đạo, không dám ra tay với một đứa trẻ sơ sinh nên giao cho vợ chồng người họ hàng xa nuôi nấng. Anh trai nàng nhanh chóng được đón về, sắc phong hoàng tử, từ một thư đồng nhỏ nhoi bên cạnh con trai đại tướng quân bước lên địa vị tôn quý nhất nhì vương quốc. Hai năm sau, phụ vương nàng được tin đại hoàng huynh cấu kết triều thần tạo phản nên truất phế khỏi ngôi thái tử, giam lỏng trong vương phủ. Anh trai nàng trở thành lựa chọn duy nhất còn lại của phụ vương, được phong thái tử, mẹ nàng cũng nhờ đó mà được phong hoàng hậu.
Trong ánh lửa chói loà trải dọc lối đi, Xa Mị theo mẫu hậu bước lên đài cao, quý phái ngồi xuống vị trí trang trọng nhất dành cho công chúa. Nàng nhớ lại ba năm trước, khi mẹ mình vẫn còn là một cung phi thất sủng bị giam trong biệt viện, còn mình là một công chúa nhỏ suốt ngày sống trong sợ hãi bị giết người bịt miệng, những buổi tiệc thế này luôn là thứ mơ ước vượt quá tầm tay đối với nàng. Cuộc đời hai người phụ nữ chốn hậu cung năm xưa vì một người đàn ông mà nhục, sau cùng lại cũng nhờ người đàn ông ấy mà vinh. Trong thế giới của mẹ nàng, vì vậy, cũng chỉ có mỗi anh nàng. Ba năm qua dường như chưa lần nào bà hỏi nàng một câu về cuộc sống trước đây, ngay cả lúc việc đại hoàng huynh từng giết nàng bị phanh phui, bà cũng chỉ quan tâm đến việc vì sao đại hoàng huynh vẫn còn chưa bị phế, trong khi thứ nàng cần lúc ấy chỉ đơn giản là một cái ôm.
“Chúc mừng hoàng muội tìm được phò mã tốt.” Người thanh niên vừa uy nghiêm vừa tuấn tú đội chiếc mão thái tử bằng vàng nâng ly rượu hướng về phía nàng, nở một nụ cười hiền, nhưng ánh mắt lại sâu không thấy đáy.
“Tạ ơn hoàng huynh.” Nàng cũng nâng ly, ngửa cổ uống cạn, sau đó dốc thẳng miệng ly theo phong tục La Sa.
Trống chiêng vang vọng, nến toả rực trời. Từng đoàn, từng đoàn ca vũ lần lượt nối nhau diễn tấu, xiêm áo đủ màu sắc tung bay, tất cả như một vòng quay bất tận. Nàng tao nhã vuốt tóc, ung dung nhấp môi từng hớp rượu, đến cuối cùng cũng chẳng nhớ mình đã uống tổng cộng mấy ly.
Nàng vẫn biết, suốt buổi luôn có một ánh mắt thỉnh thoảng lại liếc sang nàng. Thứ ánh mắt thâm trầm đáng sợ đến nỗi có thể giết người.
Năm ấy, cũng sau một buổi tiệc rượu thế này, từng có một người trong bóng tối hung hăng chiếm đoạt nụ hôn đầu đời của nàng trong hơi thở nồng mùi rượu. Hắn ôm nàng, khoá chặt lấy nàng đến đau đớn, tha thiết khẩn cầu:
“Xa Mị, ta yêu nàng, ta yêu nàng đến phát điên rồi! Chúng ta bỏ trốn đi, trở lại như trước kia đi, quên hết tất cả đi có được không?”
Nhưng nàng lại lắc đầu.
Và cái lắc đầu ấy đã đẩy thứ hạnh phúc giản đơn nàng từng mong mỏi vào địa ngục.