Đầu tháng 5 năm 1405, quân Minh chia 2 đường tiến vào nước ta, Trương phụ, Trần Húc theo ải Pha Lũy tiến vào, quân Mộc Thạnh, Lý Bân đánh vào ải Phú Lệnh (gần thị xã Hà Giang ngày nay)
Bên ngoài ải Phú Lệnh, doanh trại quân Minh san sát nhau, chi chít và li mít (limit). Lão cáo già Mộc Thạnh đến bên ngoài cửa ải Pha Lũy liền cho quân dừng lại dựng trại, thổi cơm ăn uống rồi nghỉ ngơi. Nguyễn Đức Nhân được phân công làm tướng chỉ huy quân phía Bắc, lúc này đứng trên cửa ải dùng ống nhòm quan sát quân Minh, gật gù nói
- Mộc Thạnh quả là con cáo già, làm gì cũng chậm rãi từ từ. Tương lai sẽ là một đối thủ khó chơi đây
Sáng hôm sau, quân Minh lại tấn công thành, nhưng lần này, quân Minh không hề gặp chống cự mà nhanh chóng tràn được vào thành. Trong khi chúng còn đang nghi hoặc, mấy chục chiến sỹ bị trọng thương chờ chết ở trong lều cứu thương nhìn nhau cười, châm lửa ngòi nổ rồi cùng hát lớn
“Bao chiến sỹ anh hùng... cùng vung gươm ra sa trường... quân xung phong... nước Nam đang chờ... mong tay ai... hồn sông núi khí thiêng ghi muôn đời... Ngựa phi... nơi xa... khi nghe... súng vang... lưng... trời...hồi... kèn... rộn... ràng...”
Tiếng quân ca vang lên đánh vào lòng quân Minh bên ngoài, tiếng như tiếng tử thần đòi mạng, cứ vang vọng giữa trời xanh. Tiếng quân ca cũng rơi vào tai các chiến sỹ đang rút lui về Thăng Long, cộng hưởng. Nguyễn Đức Nhân đứng trên đỉnh núi, nhìn xuống doanh trại đang cháy rừng rực, thở dài...
Trong đoàn người đột nhiên vang lên tiếng hát
“...là trang nam nhi, quyết chiến sa trường, sống thác coi thường, mong chết trong da ngựa bọc thân thể trai. Còn nghe dư âm mênh mông khúc anh hùng ca giữa nơi biên cương, bao chiến mã lên đường, giục lòng dân quân thi can trường, nguyện tranh đấu cho giống nòi, hận thù bao năm căm lòng đất nước tan tác. Xương máu đang khơi ngòi, tiếng than nơi nơi, tháng năm dần trôi. Vì đế quốc, đánh tan ngoại bang. Vì tự do, đánh tan sài lang. Giành hạnh phúc, đắp xây tự do. Việt dân, tranh đấu chống quân ngoại xâm!”
Tiếng ca cứ thế lan xa, lan xa mãi, các chiến sỹ nắm chắc vũ khí trong tay, mắt ngập lửa căm thù, lầm lũi bước về phía Nam, lòng âm thầm thề có một ngày sẽ bắt quân thù trả giá.
------------
Tháng 6, quân Minh hội quân ở Bạch Hạc, bày doanh trại ở bờ Bắc sông Cái, đến tận Chú Giang.
Hội Liên Việt bố quân ở sông Bạch Hạc, dưới sự chỉ huy của bộ tham mưu tối cao, quân ở sông Chú theo sự chỉ huy của Nguyễn Đức Nhân cũng một số tướng cũ của nhà Hồ. Trên bờ, quân bộ và voi đóng đối diện với doanh trại quân Minh.
Trương Phụ và Mộc Thạnh dùng danh nghĩa “Phù Trần”, viết bảng văn kể tội hội Liên Việt và tìm con cháu nhà Trần để phục vị, cho thả theo dòng sông. Nội dung bảng văn kể 22 tội, gồm có 8 nội dung lớn
1. Cướp ngôi, giết vua và tông thất nhà Trần (2 tội)
2. Coi nước và nhân dân như thù địch (3 tội)
3. Tự tiện đổi tên nước (1 tội)
4. Lừa gạt triều đình nhà Minh (trong vụ Trần Thiêm Bình) (3 tội)
5. Đánh Ung Châu (5 tội)
6. Đánh Chiêm Thành là nước đã thần phục nhà Minh (6 tội)
7. Không theo lịch Trung Quốc (1 tội)
8. Khinh nhờn, không kính trọng nhà Minh (1 tội)
Đọc nội dung bản hịch mà các chiến sỹ sỹ quan Liên Việt cười đau đớn. Cho dù có xuyên tạc thì cũng phải xuyên tạc cho đúng, Trần Quý Khoáng là con cháu nhà Trần, ở đâu có chuyện cướp ngôi giết vua, coi nước và dân như thù địch lại càng không đúng. Đoạn dưới lại càng vô căn cứ, khó mà tin được.
Tháng 7, quân Minh chiếm được Việt Trì, bờ sông Mộc Hoàn và bãi đóng cọc ở sông Bạch Hạc. Tướng chỉ huy sư đoàn Lê Dương số 3 là Hồ Xạ không giữ được, phải dời quân trận sang phía Nam sông Cái.
Đêm mùng 7 tháng 7, quân Minh tiến ra bãi sông Thiên Mạc, nhưng bị Trần Đĩnh phát hiện, huy động cung thủ và máy bắn đá oanh tạc, quân Minh chết đuối vô số, buộc phải rút lui.
Sau trận thất bại ở Thiên Mạc, đêm ngày mùng 9, quân Minh đánh úp quân thủy ở bãi Mộc Hoàn, tướng Phạm Nguyên Khôi mải mê nữ sắc bị đánh trở tay không kịp, quân thủy ở phía trên và phía dưới chỉ đứng nhìn và sai người về xin Nguyễn Đức Nhân cử người thay giữ nơi ấy. Nhân chưa kịp hồi đáp thì quân Minh đã làm cầu phao để vượt sông.
Sáng ngày 12 tháng 7, quân Liên Việt và quân Minh dàn trận đối mặt nhau ở bờ Nam sông Cái.
Bên phía quân Minh, cờ xí rợp trời, nổi bật nhất là một lá cờ nền xanh, trung tâm thêu một chữ Minh màu vàng, xung quanh có thêu kim tuyến lấp lánh. Đây là đại Minh quân kỳ. Hai bên lá cờ này có 2 lá cờ Kim Long thăng thiên kỳ và Thanh long đạp hải kỳ. Trương Phụ mặc Minh quang khải giáp, tay cầm đại đao, cưỡi ngựa chiến có đeo giáp vẩy cá, xung quanh là các phó tướng và các tướng quân khác.
Quân Minh bày trận rất quy củ: Hai cánh là kỵ binh, trung tâm là trường thương binh và lính giáo, phía sau là cung binh, sau nữa là đao binh. Trước trận còn bày một loạt hỏa pháo.
Bên phía Liên Việt, chỉ duy nhất có lá quốc kỳ tung bay phấp phới, con rồng đỏ đối diện với 2 con rồng xanh và vàng của nhà Minh lại càng tỏ ra uy vũ, dữ tợn. Quân Đại Việt lấy lính bắn súng hỏa mai làm chủ, xen kẽ giữa các đội hình phương trận Tercio dùng giáo dài, phía sau bố trí lính ném lao và lính hỗn hợp. Sau cùng là pháo các loại. Đặc biệt, Mạnh còn mang đến 1 khẩu đại bác cỡ nòng 75mm làm quà gặp mặt cho quân Minh. Kỵ binh và Tượng Binh được bố trí ở hai cánh, sẵn sàng chiến đấu.