Quân Minh lập tức dùng hỏa pháo nã vào đội hình của quân Mông cổ, nhưng hiệu quả không cao lắm vì quân Mông cổ quá tản mát. Các kỵ sỹ Mông Cổ lao xuống, trút tên lên đầu quân Minh. Chỉ trong loạt tên đầu, cả trăm lính Đại Minh đã bị bắn chết. Quân Minh cũng lập tức bắn trả, đem mấy chục kỵ bắn gục.
Quân Mông Cổ tách sang hai cánh, cố gắng kéo dài đội hình của quân Minh, nhưng đã quen với trận thế của quân Mông cổ, quân Minh cứ giữ vững đội hình, người trước ngã xuống, người sau tiến lên lấp chỗ trống.
- Thiêu Đãng kỵ binh, tấn công!
- Biên quân xạ kỵ! Tấn công!
Cờ lệnh được phất lên, hai cánh của quân Minh được mở ra, từ trong trận, 4 đội kỵ binh phóng ra. Cờ Bạch Hổ và cờ Hắc Hổ tung bay. Đi đầu là Biên quân Xạ kỵ, lưng khoác áo choàng đỏ, hông đeo chiến đao, trong tay cầm cung ghép tinh xảo, đó là biên quân xạ kỵ, là đội quân kỵ Hà Bắc năm xưa Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương lập nên dùng để đối phó khinh kỵ Mông Cổ, đã theo Chu Nguyên Chương đánh đông dẹp bắc, xua đuổi Thát Lỗ lập nên nhà Minh. Mấy ngàn xạ kỵ tiến lên dưới lá cờ Hắc Hổ, thêu chỉ vàng, liên tục giương cung lắp tên, bắn trả quân Minh. Tuy không thể chính xác bằng kỵ binh Mông Cổ, nhưng lợi dụng ưu thế bắn tập trung mà bắn hạ không ít quân Mông Cổ.
Quân hai bên giao chiến từ sáng đến chiều mới kết thúc, khi người lính biên quân trịch đạn cuối cùng châm lửa hỏa hổ rồi lao vào đám lính Mông Cổ nổ tung. Tổng cộng quân Mông Cổ trong toàn trận chiến chết trận 20000 người, bị thương khoảng 10000, quân Minh thiệt hại nặng hơn, chết trận 10 vạn người, bị thương không rõ. Hai đội quân bộ binh giáp nặng là Phá trận và Ngự trận đều bị tiêu diệt, quân Minh rút về Đại Đồng, thấy thành bị phá, lại đi vòng qua Úy Châu, đi đường Tử Kính Quan để rút về. Dọc đường bị quân Mông Cổ đuổi giết, bị chết đói, chết mệt... hơn vạn người. Hoàng đế Chu Lệ chán nản về nghỉ ở hành cung ở Bắc Kinh, trong nước dần xuất hiện những âm thanh phản đối, nói Chu Lệ bất tài, tàn ác, đánh trận toàn thua, hoài niệm Huệ Đế nhân từ, anh minh...
Nhắc đến Huệ đế là đụng đến nỗi đau cấm kỵ của Chu Lệ, Minh Thành Tổ lập tức hạ lệnh nghiêm tra, sai Cẩm Y Vệ đi lùng bắt người, kẻ nào bàn tán, giết không tha. Cả đại Minh chìm trong khói lửa.
----------
Tháng 6 năm 1406, Mạnh điều 5000 lính Nhật bản tăng viện cho Trương hà Minh. Hà Minh theo kế sách của Mạnh sai lính bí mật leo lên 2 ngọn đồi nhỏ, đào chiến hào và chăng dây thép gai. Quân Khmer đêm đêm cũng cẩn thận phòng bị doanh trại, lo sợ quân Việt đánh úp, nhưng đó là phạm vi doanh trại, còn bên ngoài thì không thuộc phạm vi lo lắng của chúng.
Sáng hôm sau, quân Liên Việt bố trí pháo cối trên đồi, nã vào doanh trại của quân Khmer, nhất là trại voi và trại ngựa. Quân Khmer nhiều lần tổ chức phản kích nhưng bị pháo kích và súng bắn khiến cho thiệt hại nặng nề nên phải rút lui.
Đối phó voi chiến cũng đơn giản hơn mọi người vẫn nghĩ, chỉ cần 1 loạt lựu đạn thì dù là siêu voi cũng tan xương nát thịt. Quân Liên Việt đánh bại quân Khmer ở sông Kiacak rồi thừa thắng ruổi dài, chiếm đóng một loạt các tỉnh Chân Lạp.
Đầu tháng 7 -1406, chiến trường phía Nam căn bản là yên ổn, quân Khmer mang theo hoàng gia Chân Lạp rút về lãnh thổ Khmer.
Ở phía Bắc, trung tuần tháng 6, Phong Linh đi nước cờ hiểm, dùng 10000 lính Liên Việt và 2 sư đoàn Lê Dương người Shan do Trần Nguyên Hãn chỉ huy đóng ở vùng biên giới Chang Mai và Hanthawaddy làm nghi binh, còn chính mình mang theo 19000 quân Liên Việt và 1 sư đoàn Lê Dương Ava đánh lên vùng Mong Mao, chỉ trong 5 ngày đã đánh tan quân Mong Mao, bắt vua Mong yang của Mong Mao phải ký hiệp ước bất bình đẳng.
Sang đến đầu tháng 7, quân của Phong Linh tiến vào Hanthawaddy, vua Razadarit dẫn quần thần ra ngoài thành nghênh đón, xin hàng. Giữa tháng 7, Min Saw Mon cũng gửi sứ giả đến xin nghị hòa, chấp nhận ra nhập liên minh Mianma (tên mới của vương quốc Ava)
--------
Ở chiến trường Triều Tiên, Kiên được Bình mách nước, liền đem ấp chiến lược nói cho người Nhật. Quân Nhật lập tức tổ chức các đội quân càn quét, đánh phá, triệt hạ các làng mạc, thành trì, dồn dân Triều Tiên vào các khu vực chỉ định. Ban ngày, người dân được tự do ra vào để làm ăn, tuy nhiên người lạ muốn vào ấp phải qua sự kiểm soát vô cùng chặt chẽ. Ban đêm, các cổng ra vào được đóng kín lại, nhưng các trường hợp cấp thiết của dân ở bên trong vẫn được giải quyết.Mọi trường hợp xâm nhập lén lút, bất hợp pháp từ bên ngoài vào đều bị phát hiện vì trong ấp có hệ thống báo động. Chung quanh ấp là một diện tích đồng trống để lính canh dễ theo dõi việc di chuyển phía ngoài.
Nhờ vào việc tách rời dân quân, du kích khỏi dân, cùng các chiến dịch nhỏ hành quân tìm diệt, quân Triều Tiên dần dần bị đẩy lùi. Đến khi quân Nhật đem pháo gỗ đến Triều Tiên thì những chiếc hỏa xa của quân Triều Tiên không còn là nỗi lo của quân Nhật nữa.
Khi mà đội lính đánh thuê 3000 người của Nguyễn Đức Nhân đổ bộ xuống Busan, thì cọng cỏ cuối cùng này đã đè chết con lạc đà Triều Tiên. Vua Lý Thành Quế chạy sang đại Minh, và rất không may, đến Liêu Đông thì bị quân Ngõa Thích bắn chết vì tưởng gian tế của quân Minh. Cung Nhượng Vương Vương Dao được đưa lên ngôi, nhanh chóng xin cầu hòa với Nhật bản.
Mặt trận Đông Nam, dưới sự hỗ trợ của Hàn Thần, vua Malaka là Salamita đã đánh bại quân Ayutthaya của Xiêm, giành được các tỉnh Tây Bắc, và đang dần mở rộng xuống phía Nam.
Duy nhất không có tin tức gì là ở mặt trận Chính Đông của Gia Bảo, nhưng đến tháng 8 năm 1406 thì Nguyễn Cảnh Dị gửi về một lá thư khiến Mạnh suýt chết nghẹn (Cái tội vừa ăn ô mai vừa làm việc)